Chuyên đề:

Thông đường cho doanh nghiệp và xã hội đắp bồi văn hóa

Dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) vừa được bàn thảo tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV, trong đó có những nội dung liên quan tài trợ cho văn hóa. Đây là vấn đề được Đảng, Nhà nước, xã hội rất quan tâm những năm qua. Đặc biệt, câu chuyện chính sách, cơ chế còn đặt ra nhiều câu hỏi cần giải đáp.
0:00 / 0:00
0:00
Thông đường cho doanh nghiệp và xã hội đắp bồi văn hóa

Tăng quyền lợi doanh nghiệp để bền nguồn lực cho văn hóa

Các lĩnh vực văn hóa, văn học nghệ thuật được kỳ vọng có cơ hội nhận nguồn “năng lượng tiếp sức” một cách “đầy đặn” hơn, thuận lợi hơn từ các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp và từ nguồn xã hội hóa. Viễn cảnh này có thể thành hiện thực nếu thời gian tới, Quốc hội thông qua Dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) sửa đổi. Nhưng rộng hơn sự đãi ngộ về thuế còn có những quyền lợi khác nữa rất đáng bàn.

Thông đường cho doanh nghiệp và xã hội đắp bồi văn hóa ảnh 1

Các bạn trẻ chuẩn bị trưng bày sản phẩm nghề thủ công tại phường Bách Nghệ - một địa chỉ xã hội hóa có mục tiêu quảng bá giá trị nghề cổ; tìm cơ hội bảo tồn, phát triển cho các làng nghề và nghệ nhân. Ảnh: XUYÊN SƠN

Miễn, giảm thuế khi tiếp sức văn hóa, nghệ thuật

Nhận rõ những bất cập, hạn chế sau nhiều năm lưu hành, nhiều nội dung mới đã được bổ sung ở dự thảo này, có liên quan đến rất nhiều lĩnh vực trong đời sống kinh tế-xã hội. Riêng với văn hóa, văn học nghệ thuật, dự thảo đưa ra những ưu đãi cho doanh nghiệp khi tài trợ, hỗ trợ, đầu tư vào các lĩnh vực này như một cách khuyến khích, thúc đẩy mối quan tâm và trách nhiệm đối với đời sống tinh thần, thẩm mỹ của xã hội.

Trong phần 2, Điều 12, Chương III của dự thảo, có nêu việc ưu đãi thuế TNDN khi thực hiện xã hội hóa cho nhiều ngành nghề thuộc danh mục đã được Chính phủ công bố và khuyến khích từ năm 2008, tất nhiên phải đi kèm với các tiêu chuẩn chất lượng nhất định. Đó là: Di sản văn hóa, bảo tàng tư nhân, cơ sở bảo tồn và hành nghề truyền thống, cơ sở trình diễn/diễn xướng dân gian, cơ sở tổ chức thi công bảo quản tu bổ và phục hồi di tích, cơ sở nghiên cứu và đào tạo về bảo tồn di sản văn hóa. Cùng với đó là các cơ sở sản xuất phim, làm dịch vụ cho sản xuất phim, xuất khẩu phim, cũng như cơ sở chiếu phim và video. Với ngành nghệ thuật biểu diễn, trong danh mục có các đơn vị nghệ thuật sân khấu như tuồng, chèo, cải lương, múa rối, xiếc, kịch, dân ca và các đơn vị nghệ thuật ca - múa - nhạc dân tộc, giao hưởng hợp xướng opera, ballet. Các bảo tàng mỹ thuật, vườn tượng, trung tâm bảo tồn, phát triển mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm văn hóa nghệ thuật cũng là đối tượng trong danh mục, được khuyến khích xã hội hóa, đầu tư từ các nguồn lực tư nhân.

Như vậy, với các lĩnh vực, ngành nghề trên, nếu các tập đoàn, doanh nghiệp... “mạnh dạn” tiếp sức, đồng hành, thì trong kinh doanh, họ sẽ nhận được những ưu đãi nhất định mà theo dự thảo là các hình thức giảm thuế, miễn thuế. Theo PGS, TS Trần Trọng Dương (Khoa Tiếng Việt và Văn hóa Việt Nam, Trường Ngoại ngữ - Du lịch, Trường đại học Công nghiệp Hà Nội), thực tế đang xuất hiện các loại hình hoạt động văn hóa và sản phẩm mới như sáng tạo nội dung số, tạo sản phẩm du lịch số, giáo dục di sản... với khả năng tiếp cận thị trường cao, thu hút công chúng trẻ, học sinh, sinh viên. Cần quan tâm hơn đến các loại hình mới này bên cạnh các lĩnh vực quen thuộc. Thậm chí, ngay đến nghệ thuật cổ truyền vốn đã được biết đến nhiều, nhưng cũng thuộc “mảng hẻo lánh” chứ không được coi là dễ kêu gọi tài trợ như điện ảnh, thời trang, các hoạt động giải trí... TS Dương cho rằng, cần mở rộng các đối tượng được khuyến khích xã hội hóa cho phù hợp với bối cảnh phát triển hiện tại.

Ngoài những “người cho” cần được khuyến khích đi kèm đãi ngộ, thì “người nhận” cần được tạo thuận lợi hơn. Dự thảo và các văn bản, phụ lục đi kèm cũng nhấn mạnh vào các khoản thu nhập được đề nghị miễn thuế như khoản tài trợ nhận được để sử dụng cho hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Thí dụ đơn giản là nếu một nghệ nhân, nghệ sĩ hay đơn vị nhận được tiền tài trợ cho hoạt động bảo tồn, sáng tạo hay trình diễn của mình, thì không bị đánh thuế khi nhận về khoản tiền đó.

Thông đường cho doanh nghiệp và xã hội đắp bồi văn hóa ảnh 2

Các hoạt động nghệ thuật mang màu sắc công lập hay tư nhân đều cần nhận được sự hỗ trợ tích cực của doanh nghiệp và xã hội để phục vụ hiệu quả hơn cho công chúng. Ảnh: HOÀNG THI

Rộng hơn thuế là đa quyền lợi khác

Những năm qua, đã có nhiều doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực văn hóa, văn học nghệ thuật cho các hoạt động sáng tác, dàn dựng, xuất bản, công bố, trình diễn, quảng bá… Theo các chuyên gia, nhiều lĩnh vực như mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm hay bảo tàng, thư viện… đều đã có sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân. Nhưng như các nhà soạn Dự thảo Luật Thuế TNDN (sửa đổi) đánh giá, thì các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia vào lĩnh vực văn hóa vẫn chủ yếu dưới hình thức vì lợi nhuận. Trong khi mô hình cung cấp sản phẩm văn hóa phi lợi nhuận vẫn chưa phổ biến tại Việt Nam. Các nguồn tài trợ phi lợi nhuận chưa thật sự phát huy hiệu quả và các đơn vị cung cấp sản phẩm văn hóa phi lợi nhuận cũng rất khó tiếp cận nguồn tài trợ này.

Một nguyên nhân được chỉ ra là thiếu cơ chế pháp lý và các thiết chế tài chính phù hợp để dẫn dắt hoạt động này. Dự thảo nếu được phê duyệt, sẽ thúc đẩy hiệu quả cho tiến trình này và sẽ khuyến khích doanh nghiệp. Bởi tiền tài trợ cho văn hóa sẽ là khoản chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN. Nhà nghiên cứu Nguyễn Anh Tuấn, Giám đốc nghệ thuật của Không gian văn hóa nghệ thuật Heritage Space phân tích, doanh nghiệp khi tham gia “cuộc chơi” này, phải được hưởng những quyền lợi về kinh tế, hoặc xã hội, hoặc danh tiếng, truyền thông... Rộng hơn câu chuyện thuế, khi có chính sách bảo đảm cho doanh nghiệp được hưởng các điều kiện đó thì các hình thức tài trợ hay đầu tư mới bền được.

Hiện đang ở Thụy Sĩ để tìm hiểu các hoạt động nghệ thuật tại đây, nhà nghiên cứu thông tin: Quốc gia này có nhiều hình thức quỹ bảo trợ cho văn hóa như ở cấp quốc gia, cấp vùng và cấp tư nhân quản lý. Doanh nghiệp có thể chọn các cấp độ đó để tài trợ, đầu tư và sẽ nhận được những quyền lợi tương ứng. Nhiều nước phát triển coi việc doanh nghiệp hỗ trợ cho văn hóa nghệ thuật là chính sách bắt buộc, ông Tuấn cho biết.

Nhân chủ đề thuế TNDN đang được quan tâm trên nghị trường và cũng là nỗi băn khoăn từ lâu trong xã hội, có thể thấy, còn có nhiều vấn đề khác cần được nghiên cứu thúc đẩy. Như vấn đề tranh thủ các tập đoàn, doanh nghiệp, thu hút các nguồn lực xã hội cho văn hóa, văn học nghệ thuật. Điều này càng cấp thiết trong bối cảnh ngân sách nhà nước hay địa phương là không thể “ôm trọn”. Cũng như xu thế thị trường hóa giải trí, kinh tế hóa văn hóa, sản phẩm hóa nghệ thuật, phát huy giá trị kinh tế của văn hóa… đang được hưởng ứng tích cực từ cả nhu cầu, thị hiếu xã hội lẫn định hướng, đường lối. Do đó, cần đa dạng hóa và khuyến khích các mô hình xã hội hóa, các phương thức hợp tác công - tư và tư nhân với các cá nhân, nhóm sáng tạo, bảo tồn, thực hành văn hóa. Một cách cụ thể, bên cạnh những gợi ý như trên, có thể “trả quyền lợi” cho các tập đoàn, doanh nghiệp bằng chính các công trình văn hóa, các tác phẩm văn học nghệ thuật có chất lượng sáng tác về các “nhà hảo tâm” đó.

Và có lẽ, việc bàn luận trên nghị trường và khuôn khổ dự thảo luật là chưa thể đủ. Cần triển khai nghiên cứu, tổ chức các cuộc tọa đàm, hội thảo, trưng cầu ý kiến… nhằm hiến kế, xây dựng các mô hình bổ sung cho chính sách, cơ chế phát triển, hỗ trợ cho văn hóa, văn học nghệ thuật bằng các nguồn lực xã hội. Để bắt tay chặt hơn giữa các văn nghệ sĩ, nghệ nhân, người sáng tạo nội dung, nhà hát, bảo tàng… với các tập đoàn, doanh nghiệp dưới sự kết nối, cổ vũ của nhà nước, chính quyền địa phương, thì không thể thiếu những đổi mới cho chính sách, cơ chế hiện hành. Ở đây, nghĩa vụ và quyền lợi thiết thực của doanh nghiệp và các nguồn lực xã hội khác cần được song hành trong một mối liên hệ tin cậy, bình đẳng, thuận tiện và tất cả các bên đều có lợi. Xa hơn từ sự cộng hưởng đó, công chúng, xã hội được hưởng lợi về thẩm mỹ, tinh thần, đất nước hưởng lợi về sự phát triển văn hóa, kinh tế.

Thực tế còn tồn tại một bất cập là với khoản chi tài trợ cho văn hóa, Luật Thuế TNDN hiện hành chưa có quy định cụ thể cho phép tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế. Thí dụ như một doanh nghiệp khi bỏ ra một số tiền để tài trợ cho hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật, thì sau này, số tiền đó - nằm trong tổng nguồn thu của doanh nghiệp - vẫn phải chịu thuế. Do đó, dự thảo đặt vấn đề sửa đổi, bổ sung quy định về khoản chi không được trừ để tháo gỡ vướng mắc và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp khi đầu tư vào văn hóa.