Má lại thủ thỉ những câu chuyện về cái làng chúng tôi đang sống hôm nay. Má nói con sông Mùi của quê mình là con sông hiền. Những ngày mưa lũ chúng tôi bên này sông phải bơi sông sang bên kia để đến lớp. Cả mấy đời bơi sông như thế nhưng có khi nào xảy ra vụ đuối nước. Má nói sông mình hiền cũng phải, dọc sông chỗ nào cũng có bộ đội nằm lại, mà bộ đội có khi nào không thương dân, nhất là lũ trẻ con đi học.
Má kể, chỗ bến Thác Chò, chỗ đó xưa có cây cầu treo bắc từ bên này sang bên kia, về sau cầu hư, để lại hai trụ cầu sắt ngày nay vẫn còn. Đó, chỗ đó có cái bệnh xá thời chiến tranh. Một lần Mỹ ném bom dội trúng bệnh xá, bộ đội, y tá chết mấy chục người. Người còn sống đào những hố nhỏ táng người mất, mả sắp hàng, không tên, không tuổi. Tôi nhớ những lần đi học về, lũ chúng tôi nghịch ngợm ném đá lên trụ cầu rồi ù té chạy. Giờ nghĩ lại, tuổi thơ thiệt vụng dại.
Rồi má bảo, cái bến Bộ Đội trên kia, chỗ cây cầu mới bây giờ là chỗ tâm linh. Hồi đâu năm 68, 69 ác liệt, một đơn vị bộ đội đóng quân ở bên sông, chỗ đó, cái doi đất thòi ra sông. Một đêm pháo từ trảng Bà Mù dưới Chu Lai nã lên, pháo dội trúng chỗ đóng quân, tất cả bộ đội đều hy sinh. Về sau người ta đi bắt ốc đêm thường nghe tiếng cười đùa, tiếng trêu ghẹo phát ra từ đầu bến. Cũng từ đó bến bơi ấy có tên là bến Bộ Đội.
Đấy, tính ra tên đất, tên làng đều có một lịch sử. Có những tên gọi gần gũi, chân quê như hố Lầy, nà Lớn, nà Dâu… Nhưng cũng có những tên gọi cất lên nghe thiêng liêng, rưng rưng lòng người như cái bến Bộ Đội mà bây giờ dân quê tôi vẫn gọi.
Tôi còn nhớ những câu chuyện thuở nhỏ, ba kể cái làng của ba. Cái làng Kỳ Trà đẹp, có con sông Thất Lục chạy quanh co trước làng, bên kia có rẫy tranh rộng mênh mông, có cái nhà bà Khóa mà thợ ngoài Hội An vào đục đẽo tiện chạm gỗ mất cả mấy tháng trời… Má tôi thì lại kể chuyện cả làng trụ bám đánh giặc, những lần cùng bà ngoại gói cơm trong mo cau, đem ra sông đặng mấy cậu bơi từ bên kia sông về lấy. Má kể cả những lần chạy giặc nửa đêm, trời mưa ướt lạnh phải mang choàng mưa ngủ ngồi ngoài rừng, rồi cả khi giải phóng cả làng cả xã tưng bừng kéo xuống Tam Kỳ đón bà con vừa ra tù sau khi giặc thua trận…
Cái quê của ba má, ông bà giành giật thời chiến tranh thì sau giải phóng lại hiến để làm hồ Phú Ninh. Kỳ Trà trở thành cố quận. Lên vùng đất mới giữa Lâm Minh, người dân quê đâu thể quên cội rễ. Gánh gồng mồ mả ông bà theo lên, mang theo cả cái tên từng thôn từ Phú Đức, Phú Thành, Trường Cửu đặt cho làng mới. Đặt cái tên Tam Trà, ít nhiều ý tình cũng gợi được chút hoài niệm về chốn cố xứ Kỳ Trà xa xôi trong con nước Phú Ninh mênh mông, cái xứ mà cha ông đã phải đổ máu để giành lại, cái xứ mà khắc sâu trong tâm khảm từng người đã đi qua thành những ký ức đầy kiêu hãnh.
Thành xã mới, thôn mới thì cũng phải nhớ rằng, cội rễ mình bắt nguồn từ đâu, nhớ rằng, trên mỗi tấc đất quê mình vẫn còn biết bao xương máu của cha ông ở đó. Tên gì, xứ gì thì mỗi cá nhân cũng phải gắng công mà góp phần cho sự phát triển. Bởi như hồ Phú Ninh có mênh mông nước thì cũng nhờ có đầu nguồn là con sông Mùi. Phú Ninh mà bỏ nguồn thì Phú Ninh cũng cạn trơ đáy mà thôi.