Tháo gỡ "điểm nghẽn của điểm nghẽn" thể chế

Cải cách thể chế ở Việt Nam đang diễn ra mạnh mẽ chưa từng có. Đây là cơ hội không thể bỏ qua để hướng tới vị thế một quốc gia thu nhập cao vào năm 2045.
0:00 / 0:00
0:00
Các doanh nghiệp chú trọng đầu tư phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Ảnh: NAM HẢI
Các doanh nghiệp chú trọng đầu tư phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Ảnh: NAM HẢI

Cải cách thể chế ở Việt Nam đang diễn ra mạnh mẽ chưa từng có. Đây là cơ hội không thể bỏ qua để hướng tới vị thế một quốc gia thu nhập cao vào năm 2045.

Việt Nam đang thực hiện những bước cải cách lớn về thể chế, bộ máy của chính quyền trung ương được tái cơ cấu và hệ thống chính quyền địa phương các cấp đang được sắp xếp lại. Những chuyển đổi đó giúp xử lý một số thách thức bức thiết nhất của quốc gia, tập trung vào cải thiện hiệu suất của bộ máy quản lý nhà nước ở cả trung ương và địa phương, đồng thời nâng cao trách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền. Bên cạnh đó, tinh thần cải cách thể chế có thể tạo tiền đề để tiến những bước xa hơn.

Những cách tiếp cận mới

Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho rằng, khi Việt Nam hướng đến mục tiêu trở thành một quốc gia có thị trường hiện đại, dựa trên năng suất cao và đổi mới sáng tạo thì cũng đã đặt ra nhiều giải pháp. Trong đó, nhiều nghị quyết mới ban hành như Nghị quyết 57 về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, Nghị quyết 68 về kinh tế tư nhân hay Nghị quyết 66 về xây dựng và thực thi pháp luật đã cho thấy nước ta đang hướng tới nền kinh tế thị trường hiện đại và đầy đủ.

“Điều quan trọng nhất chính là sự thay đổi góc nhìn về thể chế. Rõ ràng Việt Nam đang thể hiện tham vọng rất lớn trong việc biến điểm nghẽn này thành lợi thế cạnh tranh. Mà theo như Tổng Bí thư Tô Lâm, thể chế là do con người, do bộ máy tạo ra thì nó sẽ phải thay đổi theo hướng là phải tạo ra lợi thế của đất nước, trong đó tạo ra lợi thế cho doanh nghiệp”

Một trong những thay đổi quan trọng nhất mà Việt Nam đang hướng tới là quá trình xây dựng, ban hành pháp luật phải gần với thực tiễn. Từ đó giúp cho phản ứng chính sách cũng nhanh hơn. Hiện nay quy trình xây dựng một bộ luật được rút ngắn, chỉ còn khoảng sáu tháng và thông qua tại một kỳ họp, so với khoảng hai năm trước đây. Nội dung của luật tiếp cận hướng tới những vấn đề nền tảng, liên quan đến quyền của người dân và doanh nghiệp. Bộ máy làm luật cũng nhấn mạnh tới tính chuyên nghiệp và chuyên môn cao với mức kinh phí cao hơn nhiều lần. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng mở cửa cho chuyên gia nước ngoài trong việc tham vấn luật. Hướng mới này giúp nền tảng pháp luật vừa tiếp cận với tiêu chuẩn quốc tế vừa mang tính thực tiễn của Việt Nam. Ông Tuấn cũng đánh giá, cách tiếp cận theo hướng phân cấp, phân quyền và gắn với trách nhiệm nhiều hơn. Nhờ đó giúp việc triển khai và thực thi pháp luật theo hướng nhanh và minh bạch hơn.

Ông Tuấn đặc biệt ấn tượng với những tư duy cải cách thể chế trong lĩnh vực phát triển kinh tế tư nhân khi đã thừa nhận vai trò quan trọng của khu vực này. “Việc thay đổi tư duy quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm là rất hiện đại. Điều kiện để doanh nghiệp bước vào thị trường dễ dàng hơn nhưng nhà nước vẫn chú trọng quản lý ở phía sau, tập trung nhiều vào những doanh nghiệp, ngành hàng có nguy cơ rủi ro cao. Những thay đổi quan trọng này giúp chúng tôi có thêm niềm tin vào sự thay đổi của thế chế mang tính thúc đẩy khu vực tư nhân thời gian tới”, ông Tuấn nói.

Thực tế Báo cáo Đột phá về thể chế cho một tương lai thu nhập cao của Ngân hàng Thế giới ghi nhận, trong 20 năm qua, tỷ trọng tài sản cố định của quốc gia nằm trong tay các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã giảm từ 51% xuống còn 14%, tạo không gian để tỷ trọng tài sản cố định của khu vực ngoài quốc doanh ở Việt Nam tăng gấp ba lần, từ 20% lên 61%. Doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã lớn mạnh và đóng góp đáng kể về tài sản đầu tư của quốc gia, giúp tạo ra tăng trưởng ngoạn mục trong hai thập kỷ qua của quốc gia. Các doanh nghiệp đó cũng đảm nhiệm phần lớn nhiệm vụ cung cấp tài chính cho hoạt động của Chính phủ. Thu ngân sách từ khu vực DNNN cao gấp ba lần so với thu ngân sách từ khu vực ngoài quốc doanh trong năm 2005, nhưng chỉ còn bằng một nửa so với thu từ khu vực ngoài quốc doanh vào năm 2023.

Cần những cải cách sâu hơn

Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu phát triển trong bốn thập kỷ qua kể từ thời kỳ Đổi mới - tỷ lệ nghèo giảm đáng kể, tăng trưởng kinh tế nhanh và kết quả phát triển con người được nâng cao. Nhưng theo Ngân hàng Thế giới, mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045 - đánh dấu mốc kỷ niệm 100 năm độc lập của Việt Nam sẽ phải đối mặt với những cải cách sâu hơn để tạo ra những đột phá mạnh mẽ.

Nhiều nghị trình tham vọng đã được vạch ra trong Báo cáo Việt Nam 2035 (công bố năm 2016) với 210 khuyến nghị về thể chế, nhưng tổng kết lại chỉ có 56 khuyến nghị được thực hiện tương đối hiệu quả, tương đương khoảng 26,7%. Điều này cho thấy việc thực hiện thể chế ở Việt Nam còn nhiều việc phải làm.

“Mặc dù còn 20 năm nữa, nhưng chỉ có ít quốc gia đã chuyển đổi thành công nhanh đến vậy, và nhiều quốc gia vẫn đang mòn mỏi qua nhiều thập kỷ trong cái gọi là “bẫy thu nhập trung bình”, báo cáo của Ngân hàng Thế giới khuyến cáo về mục tiêu phát triển của Việt Nam.

Việt Nam đang có đà cải cách thể chế mạnh mẽ. Đây là cơ hội để chuẩn bị nền tảng cho một nền kinh tế có quy mô lớn hơn, với mức độ phức hợp cao hơn, để xây dựng các cơ chế giám sát độc lập bên ngoài, hỗ trợ khả năng chống chịu với những thách thức trên con đường phía trước. Đây cũng là cơ hội chỉ có một lần để hoàn thiện vai trò của Nhà nước và mang lại thịnh vượng cho người dân Việt Nam.

Ông Trần Đình Thiên, thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, việc tinh gọn, sắp xếp lại bộ máy quản lý từ trung ương đến địa phương đang được thực hiện theo logic cải cách từ trên xuống dưới mang tính đột phá rất mạnh. Điều này cũng sẽ tạo thuận lợi cho đổi mới một cách triệt để.

Thực lực, tiềm lực của kinh tế Việt Nam là rất mạnh nhưng trước đây bị trói chặt nên không phát huy được. Tư duy cởi trói theo hướng các địa phương tự quyết, tự làm, tự chịu trách nhiệm cần được khơi thông hiệu quả. Bên cạnh chế độ tự chịu trách nhiệm cá nhân thì cần gắn với tính chuyên nghiệp, có cơ chế khuyến khích những người có tài để những tài năng của Việt Nam thật sự trỗi dậy vượt qua nỗi sợ rủi ro chính sách”, ông Thiên nói.

Còn theo ông Phạm Duy Nghĩa, Giáo sư Luật và chính sách công, Trường đại học Fulbright Việt Nam, vẫn còn nhiều không gian để cải cách và dưới sức ép của thời đại số thì cải cách phải nhanh hơn nữa.

“Điều quan trọng nhất của cải cách thể chế chính là tính lan tỏa và tính dụng hợp của tất cả các cải cách. 25 năm trước chúng ta đã có những giấc mơ về một đất nước phát triển. Nhưng quan trọng nhất là giá trị của sự phát triển đó phải được chia sẻ cho dân chúng, người dân phải được tham gia vào các thảo luận đa chiều, dự liệu được những hậu quả của các chính sách ở quy mô lớn”.

Ông Nghĩa cũng ví việc xây dựng và thực thi thể chế giống như việc làm bánh và chia bánh. Chỉ khi có thể chế tốt thì miếng bánh mới có thể to lên được. Thể chế tốt mới có thể phân phối được thu nhập công bằng và bảo đảm được sự phát triển bền vững trong tương lai lâu dài cho Việt Nam. Nếu như năm 2045, Việt Nam trở thành nước có thu nhập cao mà lợi ích đó chỉ tập trung vào một số nhóm nhất định trong xã hội thì Việt Nam mới chỉ thành công một nửa.