Lãng phí quỹ đất nhà ở xã hội ở Thái Nguyên

Dù đã có quy định dự án khu dân cư, khu đô thị phải dành 20% quỹ đất để xây dựng nhà ở xã hội, nhà đầu tư được miễn tiền sử dụng đất, nhưng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, rất ít dự án được triển khai. Trong khi nhu cầu về nhà ở của công nhân, người thu nhập thấp là rất lớn.
0:00 / 0:00
0:00
Tháng 9 tới, Dự án nhà ở xã hội Khu dân cư Đại Thắng sẽ được đưa vào sử dụng.
Tháng 9 tới, Dự án nhà ở xã hội Khu dân cư Đại Thắng sẽ được đưa vào sử dụng.

1. Tỉnh Thái Nguyên có nhiều khu công nghiệp, chủ yếu ở khu vực phía nam tỉnh, tập trung ở vùng đô thị thành phố Phổ Yên, Sông Công và huyện Phú Bình, đang thu hút khoảng 100 nghìn công nhân, trong đó 60% công nhân là người ngoài tỉnh nên nhu cầu nhà ở rất lớn. Chung quanh các khu công nghiệp, những năm qua, nhà trọ do người dân địa phương xây dựng cho công nhân thuê mọc lên như nấm. Đó chủ yếu là những căn nhà cấp bốn, nền láng xi-măng, trần nhựa, mái tôn hoặc proximăng, mỗi phòng rộng khoảng 10-12 m2, cho công nhân thuê mỗi tháng 1,5 triệu đồng, phòng vệ sinh khép kín là 2 triệu đồng/tháng. Điều đó cho thấy, nhu cầu nhà ở xã hội nói chung, nhà ở công nhân nói riêng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên là khá lớn. Nhưng mới chỉ có Khu dân cư Đại Thắng là dự án nhà ở xã hội hiếm hoi trên địa bàn tỉnh được đầu tư xây dựng.

Công ty cổ phần TNG Land (trực thuộc Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG) đầu tư dự án Khu dân cư Đại Thắng ở phường Đồng Tiến, TP Phổ Yên (Thái Nguyên) gồm hai phần. Một là dự án nhà ở thương mại được xây dựng trên diện tích 80% quỹ đất; và phần dự án nhà ở xã hội Khu dân cư Đại Thắng xây dựng trên diện tích 20% quỹ đất với tổng mặt bằng gần 8.500 m2. Chỉ sau thời gian ngắn, toàn bộ các căn hộ của dự án này đã được mua hết, các hộ mua căn hộ liền kề hai tầng cũng đã được giao nhà để ở. Tháng 9 tới, toàn bộ các căn hộ tại tòa nhà cao tầng sẽ được bàn giao cho người mua.

Sau khi đăng ký, được thẩm định chưa có nhà ở, xác định là thu nhập thấp và được phê duyệt đúng đối tượng, ngày được giao căn hộ BT3 nhà ở xã hội tại khu dân cư trên, vợ chồng anh Hoàng Xuân Long - chị Dương Thị Kim Thư vui mừng, giấc mơ bao năm có nhà ở thành sự thật. Anh Long tâm sự: “Làm công nhân, thu nhập của hai vợ chồng là gần 20 triệu đồng/tháng, nhiều năm nuôi con nhỏ, thuê nhà trọ ở trong cảnh chật chội, nóng bức nên cuộc sống khó khăn, vất vả. Ngày chuyển đồ đạc về mà như mơ, vì thật sự có mái ấm của riêng mình. Mua được nhà ở ổn định, hai vợ chồng vô cùng phấn khởi, có động lực, yên tâm làm việc tốt hơn”.

2. Những năm gần đây, hàng loạt khu dân cư, khu đô thị trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên mọc lên, trong đó có những khu đô thị hiện đại, đồng bộ hạ tầng, vốn đầu tư lớn, cảnh quan đẹp, diện tích từ 40- 50 ha, trong đó đều dành 20% quỹ đất để xây dựng nhà ở xã hội. Nhưng trên thực tế, đến nay gần như không có khu nhà ở xã hội nào được xây dựng trong các khu dân cư, khu đô thị này. Quỹ đất 20% trong khu dân cư, khu đô thị thì hoặc là đang bỏ hoang, hoặc chưa giải phóng mặt bằng, chưa đầu tư hạ tầng.

Ông Nguyễn Văn Thời, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần TNG Land, chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội Khu dân cư Đại Thắng thẳng thắn chia sẻ: “Với định mức lãi 10%, tương đương giá bán 14 triệu đồng/m2 nhưng thực tế chúng tôi bị lỗ khi thực hiện dự án nhà ở xã hội nên phải lấy tiền lãi từ khu nhà ở thương mại dự án Khu dân cư Đại Thắng ở bên cạnh để bù vào. Nếu không vì an sinh xã hội và không thực hiện khu nhà ở thương mại bên cạnh thì chúng tôi không đầu tư”.

Lý giải nguyên nhân bị lỗ, ông Nguyễn Văn Thời cho biết: Cơ quan quản lý nhà nước đưa ra định mức lãi tối đa 10% đối với dự án nhà ở xã hội. Trong khi đó, quy định định mức đầu vào đều thấp hơn thực tế, như chi phí bán hàng theo định mức là 2% giá bán, nhưng thực tế lên đến 6%; định mức mỗi m3 cát là 230 nghìn đồng, thực tế là 520 nghìn đồng; định mức vật tư, vật liệu, nhân công, ca máy… do cơ quan quản lý quy định đều thấp hơn thực tế đầu tư. Điều đó giải thích vì sao các chủ đầu tư không muốn làm nhà ở xã hội khi dành 20% quỹ đất.

Trong dự án khu dân cư, khu đô thị, phần đất phân lô bán nền, nhà ở thương mại được coi là phần “nạc” đều đã bán hết. Còn 20% đất nhà ở xã hội là phần “xương”, không có chế tài buộc nhà đầu tư phải xây nên quỹ đất này bỏ hoang, trả cho địa phương quản lý. Tuy nhiên địa phương không mời gọi được doanh nghiệp đầu tư xây dựng riêng lẻ nên đành để quỹ đất này một lần nữa bỏ hoang.