Giáo dục đại học chưa có sự bứt phá
Hội thảo Giáo dục năm 2023 về “Thể chế, chính sách nâng cao chất lượng giáo dục đại học” do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) và Đại học Quốc gia (ĐHQG) Hà Nội tổ chức mới đây đã tạo diễn đàn để các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý, các chuyên gia, nhà giáo, nhà khoa học trong và ngoài nước thảo luận, trao đổi đánh giá việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với giáo dục đại học; trong đó, tập trung về chất lượng và đánh giá chất lượng giáo dục đại học.
Phát biểu ý kiến tại hội thảo, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn cho biết: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó xác định: Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ phải được xem là quốc sách hàng đầu. Trên cơ sở đó, việc phát triển giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn lực con người liên tục được nhấn mạnh qua các kỳ Đại hội Đảng và trở thành một trong những nhiệm vụ, giải pháp đột phá chiến lược.
Nghị quyết số 29 của Ban Chấp hành T.Ư Đảng khóa XI đã đặt ra yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo hướng lấy chất lượng và hiệu quả làm thước đo nhằm mục tiêu phát triển toàn diện con người, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với khơi dậy khát vọng, ý chí tự cường, tự hào dân tộc và giá trị văn hóa, con người Việt Nam thời đại mới. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu được đề cập trong Nghị quyết là hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, trong đó có giáo dục đại học.
Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn nhận định, giáo dục đại học Việt Nam đang trong trạng thái phát triển, giàu sức sống với một số lượng sinh viên tương đối ổn định; số lượng giảng viên tăng lên về số lượng, cải thiện về học hàm học vị; xếp hạng cũng có cải thiện, một số trường vào tốp 1.000 trường đại học thế giới theo một số bảng xếp hạng đại học uy tín. Tuy nhiên, sự phát triển này theo Bộ trưởng là còn chậm, không có bứt phá trong sự phát triển giáo dục đại học.
Trước sự vận động, phát triển không ngừng của khoa học - công nghệ và tri thức nhân loại, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, giáo dục đại học (GDĐH) còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập cả về quy mô, cơ cấu ngành nghề và kỹ năng làm việc. Thể chế, chính sách điều chỉnh lĩnh vực GDĐH còn có sự mâu thuẫn, thiếu thống nhất trong cách hiểu, vận dụng và hướng dẫn thi hành. Quy mô GDĐH của nước ta có tăng nhưng chưa đủ đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế tri thức. Kinh phí đầu tư cho GDĐH còn thấp. Chính sách xã hội hóa giáo dục chưa thật sự thu hút được nhiều các thành phần xã hội tham gia. Số lượng, cơ cấu, chất lượng đội ngũ giảng viên đại học chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao, nhất là về năng lực đổi mới sáng tạo. Công tác nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế còn chưa tương xứng với tiềm năng. Hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng GDĐH chưa được hoàn thiện.
Theo Thứ trưởng GD&ĐT Hoàng Minh Sơn, có thể nhận thấy những nguyên nhân căn cốt dẫn tới hạn chế về chất lượng GDĐH như sau: Thứ nhất, Cơ chế đánh giá cũng như giám sát chất lượng có thể chưa thật sự hiệu quả, thực chất. Chúng ta muốn biết chất lượng giáo dục đến đâu cần phải có cơ chế đánh giá, giám sát chất lượng thật sự hiệu quả. Thứ hai, hành lang pháp lý của tự chủ đại học chưa thật sự đồng bộ, chưa tạo sức bật mạnh mẽ cho các cơ sở GDĐH phát huy hết nội lực; năng lực quản trị của một số cơ sở GDĐH còn yếu. Thứ ba, hệ thống GDĐH còn phân mảnh, chưa được tối ưu hóa. Một số cơ sở GDĐH hoạt động kém hiệu quả, kém chất lượng. Thứ tư, nguồn lực đầu tư cho giáo dục còn rất thấp so với yêu cầu phát triển. Đối sánh với khu vực và thế giới, tỷ trọng chi đầu tư từ ngân sách nhà nước cho GDĐH chỉ bằng một phần hai hoặc một phần ba so với mức trung bình của khu vực.
![]() |
Thí sinh tìm hiểu thông tin tuyển sinh tại gian tư vấn của Trường đại học Hà Nội. |
Tháo gỡ điểm nghẽn
Thứ trưởng cho rằng, chính sách nâng cao chất lượng GDĐH chính là tăng cường yếu tố tác động đến chất lượng và khắc phục điểm nghẽn nói trên. Theo đó, cần có những chính sách và rà soát chính sách về đánh giá, giám sát chất lượng; cần giải pháp để tối ưu hóa ở cả cấp độ hệ thống cũng như trong từng cơ cở GDĐH; cần cơ chế chính sách để huy động được ở mức cao nhất và phát triển các nguồn lực về tài chính, đội ngũ, cơ sở vật chất, công nghệ, quan hệ hợp tác của nhà trường và của hệ thống GDĐH với bên ngoài, với thế giới; có cơ chế chính sách phân bổ và kiểm soát hiệu quả các nguồn lực từ Nhà nước, đặc biệt là ngân sách nhà nước cho GDĐH.
Cụ thể, về đánh giá, giám sát chất lượng giáo dục, cần chú trọng hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong, những vấn đề liên quan đến kết hợp hiệu quả kiểm định cấp cơ sở GDĐH và cấp chương trình đào tạo. Phân định rõ chức năng quản lý nhà nước về quản lý chất lượng với dịch vụ đánh giá kiểm định... Kết hợp hiệu quả sử dụng chuẩn cơ sở GDĐH và chuẩn chương trình đào tạo cũng như phát triển, khai thác hiệu quả cơ sở dữ liệu GDĐH - công cụ quan trọng để bảo đảm tính minh bạch trong hệ thống.
Cần tháo gỡ điểm nghẽn về cơ chế chính sách để thúc đẩy tự chủ ĐH đi vào chiều sâu và thực chất. Qua đó, từng cơ sở GDĐH cũng như toàn hệ thống có thể phát huy được nội lực, có khả năng khai thác được các nguồn lực khác nhau, đầu tư nâng cao chất lượng GDĐH. Cùng với đó, các cơ sở GDĐH có thể cạnh tranh lành mạnh trong môi trường thông thoáng, minh bạch, lấy chất lượng làm nền tảng.
Bộ GD&ĐT đang khẩn trương xây dựng để trình Thủ tướng phê duyệt quy hoạch mạng lưới cơ sở GDĐH. Vai trò điều tiết, định hướng của Nhà nước rất quan trọng để thực hiện quy hoạch mạng lưới; vì để thực hiện cần cơ chế, chính sách huy động nguồn lực, tăng nguồn đầu tư của Nhà nước thực hiện quy hoạch này.
Với việc ứng dụng công nghệ mới trong triển khai mô hình GDĐH số, Thứ trưởng cho rằng, không chỉ dừng lại ở cấp độ cơ sở GDĐH mà có tính liên thông trong toàn hệ thống. Với việc chia sẻ sử dụng chung nguồn lực và cung cấp dịch vụ giáo dục trên môi trường số, cần có cơ chế, chính sách khuyến khích các cơ sở giáo dục hợp tác, sử dụng chung môi trường này; cũng như thúc đẩy ứng dụng công nghệ giáo dục đối với phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng đào tạo.
Về huy động nguồn lực tài chính, theo Thứ trưởng, phải bảo đảm nguyên tắc chi phí theo lợi ích. Từ nguồn lực người học, cần rà soát các chế độ, chính sách liên quan đến học phí, học bổng, tín dụng ưu đãi của sinh viên theo đối tượng, lĩnh vực, ngành nghề đào tạo.
Nguồn lực từ Nhà nước, cần làm sao để tăng mức chi ngân sách nhà nước cho GDĐH đạt mức trung bình trong khu vực, bảo đảm cho đầu tư vào lĩnh vực và các trình độ đào tạo có hiệu quả cao nhất. Với nguồn lực từ doanh nghiệp: Cần xem xét hiện nay có điểm nghẽn gì trong chính sách ưu đãi về đất đai và thuế đối với các doanh nghiệp, các cá nhân muốn tài trợ cho GDĐH; những chính sách khuyến khích, đặt hàng theo kết quả đầu ra đã được triển khai chưa? Cuối cùng, nguồn lực từ chính hoạt động của các cơ sở GDĐH, liệu các nguồn thu khác có giúp nhiều cho việc tăng nguồn lực và nâng cao chất lượng đào tạo của từng cơ sở GDĐH hay không?
Ngoài đề xuất tăng ngân sách nhà nước cho GDĐH, Thứ trưởng đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ chế, chính sách phân bổ ngân sách nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng, tăng cường tính minh bạch, giám sát đưa vào sử dụng.