Bảo đảm quy mô và cơ cấu dân số

Việt Nam đã đạt mức sinh thay thế và liên tục giữ vững tổng tỷ suất sinh (TFR - số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ) ở mức dưới 2,1 con trong vòng gần 10 năm qua. Tuy nhiên, mức sinh còn có sự khác biệt lớn giữa các vùng, miền, đòi hỏi có bài toán đặc thù cho sự phát triển bền vững của từng vùng, miền, cũng như sự phát triển chung của cả nước.

Hơn 50 năm qua, tổng tỷ suất sinh của Việt Nam liên tục giảm, từ 6,39 con (năm 1960) xuống còn 2,09 con năm 2006 (dưới mức sinh thay thế, được các nhà khoa học tính toán là 2,1 con - số con đủ thay thế cho người mẹ trong suốt cuộc đời họ). Liên tục từ đó đến nay, nước ta luôn ở dưới mức sinh thay thế. Theo các nhà khoa học, chỉ tính riêng trong 20 năm qua, nước ta đã tránh sinh được 20,8 triệu người. Ðiều đó có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao mức thu nhập bình quân đầu người, nâng cao các chỉ số sức khỏe, chất lượng cuộc sống của người dân.

Một số ý kiến cho rằng, với mức độ sinh ổn định, bền vững như vậy, Việt Nam không cần tiếp tục kiểm soát tỷ lệ sinh. Tuy nhiên thực tế, con số này chưa phản ánh đúng bản chất, mức sinh ở nước ta hiện nay vẫn không đồng đều theo từng vùng. Vùng Ðông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long có mức sinh thấp hơn nhiều so với mức sinh thay thế (1,5 đến 1,6 con). Trong khi đó, một số tỉnh cũng đang có mức sinh thấp như TP Hồ Chí Minh (1,33 con), Ðồng Tháp (1,57 con), Cần Thơ (1,58 con), Cà Mau (1,62 con), Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu (1,7 con)... Tổng tỷ suất sinh như các tỉnh này hiện tương đương Hàn Quốc, Xin-ga-po là những nước đang có các chính sách nỗ lực khuyến khích phụ nữ sinh con do thiếu nguồn nhân lực và dân số già hóa nhanh chóng.

Ngược lại, khu vực miền núi phía bắc, miền trung và Tây Nguyên có tỷ suất sinh rất cao và đang kiên trì giảm sinh. Nếu tỷ suất sinh thô cả nước hiện là 16‰ đến 17‰ thì tỷ suất sinh ở các tỉnh này lên đến gần 30‰. Nhiều tỉnh như: Hà Giang, Lai Châu, Hà Tĩnh, Ðác Lắc… số con trung bình của một người mẹ vẫn còn ở mức trên, dưới ba con. Thậm chí có những nơi, người dân sinh tới sáu, bảy người con. Do đó, ở những tỉnh này, muốn TFR giảm được từ ba xuống 1,8 con là con đường dài, gian nan và vất vả. Chính vì vậy, duy trì mức sinh thấp hợp lý là giải pháp hữu hiệu nhất trong giai đoạn hiện nay, giúp chúng ta có được quy mô và cơ cấu dân số hài hòa nhất, vì sự phát triển bền vững của đất nước.

Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 nhấn mạnh đến việc "chủ động điều chỉnh tốc độ tăng dân số" với phương án duy trì mức sinh thay thế. Vậy mức sinh thay thế là bao nhiêu? Khi chúng ta áp dụng phương án này, liệu có rơi vào tình trạng số con của người phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ sẽ dần thấp đi rồi rơi xuống ngưỡng quá thấp, để rồi không thể "kích cầu" sinh đẻ được như câu chuyện của một số nước đang gặp phải? Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế) đã đề xuất với Chính phủ cố gắng duy trì mức 1,8 đến 2 con, không để TFR tăng lên nhưng cũng không để xuống quá thấp. Nhìn chung trên quy mô cả nước, TFR ở mức 2,1 con là hợp lý và chúng ta đã duy trì được mức sinh thay thế này trong 13 năm.

Theo Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Nguyễn Doãn Tú: Ðối với một số tỉnh miền núi phía bắc, Tây Nguyên mức sinh còn cao, cần giảm mạnh và sớm đạt mức sinh thay thế để từ đó có điều kiện nâng cao chất lượng dân số. Trong khi đó, một số tỉnh, thành phố thuộc vùng Ðông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, mức sinh đã xuống khá thấp, nếu giảm nữa sẽ khó đạt được mức sinh thay thế. Ðây là điều đáng báo động, nhiều người ở TP Hồ Chí Minh chỉ sinh một con, trong khi tỷ lệ cặp vợ chồng vô sinh đang có xu hướng tăng. Việc kiểm soát mức sinh trong quy mô dân số hiện nay diễn biến ngày càng phức tạp cho nên kế sách cũng cần đa dạng để phù hợp thực tiễn. Những chương trình, kế hoạch cụ thể đã và đang được triển khai một cách tích cực để từng bước khắc phục sự mất cân đối trong cấu trúc dân số.

Sau Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, Tổng cục Thống kê đã đưa ra ba kịch bản khác nhau về mức sinh ở Việt Nam, gồm phương án mức sinh cao; mức sinh thấp và mức sinh thấp thay thế. Ðây là cơ sở để hoạch định chiến lược dài hạn, cùng hệ thống các giải pháp thực hiện phương án mục tiêu được chọn. Với phương án mức sinh cao, nếu mức sinh tăng trở lại và tổng tỷ suất sinh có thể lên tới 2,3 đến 2,5 con/phụ nữ thì sau năm 2049, quy mô dân số ở nước ta đạt cực đại ở mức quá cao (khoảng 130 triệu đến 140 triệu người), mật độ dân số khoảng 400 người/km2. Ngược lại, nếu để mức sinh giảm xuống quá thấp và tổng tỷ suất sinh chỉ khoảng 1,35 con/phụ nữ (vào khoảng năm 2049), quy mô dân số nước ta sẽ đạt cực đại khoảng 95 triệu đến 100 triệu người. Kịch bản thứ ba, đó là duy trì mức sinh thay thế, với tổng tỷ suất sinh 2,1 con/phụ nữ thì quy mô dân số nước ta sẽ chỉ đạt mức cao nhất khoảng 115 triệu người vào năm 2049.