Hà Nội của chúng ta

Cột cờ Hà Nội

Kỳ đài Hà Nội xây dựng từ năm 1805 đến 1812 cùng thời với thành Hà Nội dưới triều Gia Long nhà Nguyễn, Kỳ đài Hà Nội là công trình bề thế, cao nhất Hà Nội thời Pháp thuộc. Từ trên đỉnh cột cờ, có thể quan sát được toàn bộ nội thành Hà Nội. Ðó cũng là lý do chính khiến Cột cờ Hà Nội là một trong số ít những công trình kiến trúc thuộc khu vực thành Hà Nội có may mắn được giữ lại nguyên vẹn cho đến ngày nay. Sau khi chiếm được thành Hà Nội, thực dân Pháp đã tiến hành phá hủy thành trong suốt ba năm từ 1894 - 1897 để xây dựng khu quân sự, nhưng cột cờ vẫn được giữ lại nguyên vẹn để biến thành đài xem đua ngựa, đồng thời là trạm quan sát, thông tin liên lạc giữa khu chỉ huy trung tâm với những đồn bốt chung quanh.

Cột cờ Hà Nội được xây dựng với kiến trúc dạng tháp, bao gồm ba tầng đế và một thân cột được xây và ốp bằng gạch gốm chung quanh. Các tầng đế là những khối chóp cụt có chân hình vuông, xây chồng lên nhau nhỏ dần về phía trên. Tầng một có chiều dài mỗi cạnh là 42,5 m, cao 3,1 m. Tầng hai: dài 27 m; cao 3,7 m. Tầng ba dài 12,8 m, cao 5,1 m, có bốn cửa; ngoại trừ cửa Bắc không ghi chú gì, còn lại ba cửa đều có chữ ghi ở trên là: Nghênh Húc (đón nắng ban mai) ở cửa Ðông, Hướng Minh (hướng về ánh sáng) ở cửa Nam, Hồi Quang (ánh sáng phản hồi) ở cửa Tây. Trên tầng ba là thân cột cờ hình trụ có 8 cạnh, mỗi cạnh dài 2,13 m thân thon dần lên phía trên cao 18,2 m. Trong Cột cờ có các bậc cầu thang xoáy ốc gồm 54 bậc, được thông hơi và chiếu sáng bởi 39 ô cửa sổ hoa thị và sáu ô cửa sổ hình dẻ quạt. Những ô cửa này được đặt dọc các cạnh, mỗi cạnh có năm hoặc sáu cửa sổ. Ðỉnh ở trên cùng của Cột cờ Vọng Canh như một lầu bát giác, cao 3,3 m có tám cửa sổ ở mỗi cạnh. Giữa lầu là trụ tròn cắm cán cờ có đường kính 0,4 m và vươn cao lên đỉnh lầu. Từ chân cột cờ đến trụ này có chiều cao là 33,4 m, nếu tính cả trụ treo cờ thì độ cao phải lên hơn 40 m.

Nhìn từ đường Ðiện Biên Phủ, Cột cờ Hà Nội có bố cục hài hòa, tôn nghiêm, có giá trị nghệ thuật kiến trúc. Cột cờ Hà Nội chính là biểu tượng thể hiện chủ quyền độc lập dân tộc, ý chí vươn lên bất khuất, không chịu khuất phục các thế lực ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Chính tại nơi đây đã từng chứng kiến cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược với sự kiện tuẫn tiết anh hùng và bi tráng của các vị Tổng đốc thành Hà Nội Nguyễn Tri Phương (1800-1873) và Hoàng Diệu (1820-1882). Trong cuộc chiến đấu này, Cột cờ Hà Nội đã được sử dụng làm nơi phát hỏa pháo hiệu chiến đấu và là một trong những pháo đài được bố trí đầy đủ cả hỏa lực bộ binh và đại pháo để chống lại quân xâm lược.

Cùng với thời gian, Cột cờ Hà Nội là biểu tượng thiêng liêng của Thăng Long - Hà Nội. Khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, lần đầu tiên, lá cờ đỏ sao vàng đã bay phấp phới trên đỉnh Cột cờ. Sau cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, ngày 10-10-1954, Hà Nội được giải phóng, lá cờ Tổ quốc lại tiếp tục tung bay kiêu hãnh trên đỉnh Cột cờ.

Gần hai thế kỷ đã qua, Cột cờ vẫn bề thế vươn cao hiên ngang cùng năm tháng với những chiến công hiển hách của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trời Hà Nội cuối xuân sang hè dường như xanh trong hơn tuyệt đẹp hơn với lá cờ thiêng tung bay trên đỉnh Cột cờ, mừng Thủ đô và đất nước đổi mới và phát triển. Lá cờ trên đỉnh Cột cờ Hà Nội mãi tung bay vẫy gọi, thúc giục mỗi chúng ta đi tới. Thi đua lập thành tích cao nhất chào mừng sự kiện Ðại lễ 1000 năm Thăng Long kinh kỳ - văn hiến.