![]() |
Quang cảnh phiên thảo luận ở tổ 13. (Ảnh: BÙI GIANG) |
Chiều 20/5, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội thảo luận ở tổ về các dự án: Bộ luật Hình sự (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng.
Góp phần tháo gỡ vướng mắc pháp lý trong thực tiễn xử lý nợ
Các đại biểu Quốc hội tán thành sự cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng trong bối cảnh thị trường tài chính có nhiều biến động, diễn biến phức tạp, ảnh hưởng của chiến tranh, xung đột quốc tế và các rào cản thương mại, làm gia tăng nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Các đại biểu nhất trí việc phân cấp, phân quyền, trao quyền chủ động, linh hoạt cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong quyết định cho vay đặc biệt và các tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu được quyền thu giữ tài sản bảo đảm.
Nhiều ý kiến cho rằng, việc sửa đổi, hoàn thiện các quy định liên quan đến quyền thu giữ, xử lý và hoàn trả tài sản bảo đảm không chỉ góp phần tháo gỡ vướng mắc pháp lý trong thực tiễn xử lý nợ, mà còn là điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật, bảo đảm quyền sở hữu và quyền tài sản của người dân, doanh nghiệp theo đúng tinh thần của Hiến pháp và các bộ luật liên quan.
Tuy nhiên, theo đại biểu Nguyễn Như So (đoàn Bắc Ninh), việc trao quyền cho tổ chức tín dụng được thu giữ tài sản bảo đảm mà không cần thông qua phán quyết của tòa án, như quy định tại Điều 198a, tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm quyền sở hữu - một quyền hiến định được pháp luật bảo vệ tuyệt đối.
![]() |
Đại biểu Nguyễn Như So (đoàn Bắc Ninh). (Ảnh: BÙI GIANG) |
Trong bối cảnh thực tế ở nước ta, nhiều tài sản bảo đảm không đơn thuần là vật thế chấp, mà còn gắn liền với đời sống dân sinh như nhà ở có người cư trú lâu dài, tài sản thừa kế đang tranh chấp, hay phương tiện mưu sinh duy nhất của hộ gia đình.
Nếu không có cơ chế kiểm soát chặt chẽ, việc tổ chức tín dụng tiến hành thu giữ trực tiếp - dù có thông báo trước - có thể tạo ra hệ lụy nghiêm trọng, đặc biệt khi xảy ra mâu thuẫn giữa bên bảo đảm và người đồng sở hữu hoặc cư trú thực tế. “Điều này tiềm ẩn khả năng vi phạm quyền lợi của các bên liên quan vốn không có tiếng nói trong hợp đồng bảo đảm ban đầu”, đại biểu Nguyễn Như So lưu ý.
Trong khi các cơ quan thi hành án hiện hành vẫn đang đảm nhiệm vai trò trung gian, bảo đảm tính khách quan và hòa giải trong quá trình cưỡng chế tài sản, thì việc trao toàn quyền thu giữ cho bên nhận bảo đảm - vốn cũng là bên có lợi ích trực tiếp trong giao dịch - có thể làm mất đi yếu tố công bằng, làm nghiêng cán cân giữa quyền lực tài chính và quyền dân sự.
Vì vậy, đại biểu Nguyễn Như So đề nghị cân nhắc bổ sung cơ chế giám sát độc lập, hoặc bắt buộc có sự tham gia của cơ quan tư pháp, nhằm tránh lạm dụng quyền thu giữ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân - đặc biệt trong các trường hợp tài sản bảo đảm có yếu tố cư trú, sinh kế hoặc tranh chấp phát sinh.
Bên cạnh đó, đại biểu cũng đề nghị xem xét lại tính khả thi của quy định tại khoản 5 Điều 198a giao trách nhiệm cho Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan Công an cấp xã tham gia quá trình thu giữ tài sản bảo đảm.
Đại biểu nêu thực tế, các cơ quan này không có chức năng, thẩm quyền cũng như không được tiếp cận thông tin pháp lý liên quan đến hợp đồng bảo đảm, khoản nợ xấu, hay quyền sở hữu của tài sản bị thu giữ.
Như vậy, trong quá trình thực thi, liệu Ủy ban nhân dân và Công an cấp xã có cần tiến hành xác minh rằng tài sản bị thu giữ thực sự là tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu? Họ có đủ cơ sở để xác định chủ sở hữu, hiện trạng pháp lý hay tình trạng tranh chấp liên quan đến tài sản hay không?
“Nếu không có cơ chế hướng dẫn rõ ràng, việc yêu cầu cán bộ cấp xã “chứng kiến và ký biên bản thu giữ” có thể dẫn đến nguy cơ bị lạm dụng như một hình thức “hợp pháp hóa” cho hành vi cưỡng chế từ phía tổ chức tín dụng, trong khi cơ quan cấp xã không có khả năng kiểm chứng”, đại biểu Nguyễn Như So nhấn mạnh.
Nhất trí phân cấp thẩm quyền cho vay đặc biệt cho Ngân hàng Nhà nước
Nêu ý kiến thảo luận, đại biểu Trần Văn Tiến (đoàn Vĩnh Phúc) đồng tình đề xuất chuyển thẩm quyền quyết từ Thủ tướng Chính phủ (đối với trường hợp khoản cho vay đặc biệt có lãi suất 0%/năm, khoản cho vay đặc biệt không có tài sản bảo đảm) thành Ngân hàng Nhà nước.
Theo đại biểu, nội dung sửa đổi, bổ sung này góp phần rút ngắn thời gian xử lý, ra quyết định, đồng thời gắn với trách nhiệm kiểm tra, giám sát của ngân hàng. Việc phân cấp phù hợp với Nghị quyết của Bộ Chính trị về đổi mới tư duy xây dựng và thi hành pháp luật, cắt giảm thủ tục hành chính.
Đối với quy định người đang giữ tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm kèm theo giấy tờ, hồ sơ pháp lý của tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng, đại biểu Tiến cũng bày tỏ nhất trí bởi quy định này sẽ giúp cho các tổ chức tín dụng có cơ hội tiếp quản các tài sản bảo đảm thuộc các khoản nợ xấu của các đối tượng vay có tài sản bảo đảm.
![]() |
Các đại biểu thảo luận tại tổ chiều 20/5. (Ảnh: BÙI GIANG) |
Tuy nhiên, để bảo đảm tính khả thi của việc thu giữ tài sản bảo đảm đối với các khoản nợ xấu, đại biểu đề nghị cần có quy định về các biện pháp xử lý trong trường hợp bên bảo đảm, người đang giữ tài sản bảo đảm không giao tài sản bảo đảm đó cho tổ chức tín dụng.
Góp ý kiến vào dự thảo Luật, đại biểu Thái Quỳnh Mai Dung (đoàn Vĩnh Phúc) cho biết, thời gian vừa qua, thế giới đã chứng kiến nhiều vụ sụp đổ của các ngân hàng có quy mô lớn. Do vậy, việc chuyển thẩm quyền quyết từ Thủ tướng Chính phủ (đối với trường hợp khoản cho vay đặc biệt có lãi suất 0%/năm, khoản cho vay đặc biệt không có tài sản bảo đảm) thành Ngân hàng Nhà nước là biện pháp phù hợp, bảo đảm thực hiện triệt để phân cấp, phân quyền.
Đồng thời, xử lý, khắc phục được các vướng mắc, bất cập trong thực tiễn, tạo cơ sở pháp lý để cơ quan quản lý có biện pháp xử lý, ngăn chặn tình trạng rút tiền hàng loạt một cách kịp thời, nhanh chóng, tránh nguy cơ đổ vỡ hệ thống, gây mất an ninh, an toàn cho kinh tế-xã hội, gián tiếp ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị của nước ta.
Tuy nhiên, đại biểu lưu ý, các cơ chế, chính sách đặc thù tại dự thảo Luật không phải là cơ sở để các ngân hàng có thể nới lỏng các điều kiện vay vốn hay xem nhẹ công tác thẩm định trước khi thực hiện cho vay, cũng như không tạo cơ chế để các ngân hàng có thể lạm quyền. Các ngân hàng không thể xem các quy định tại dự thảo Luật như “cây đũa thần” mà vẫn phải hoàn toàn chịu trách nhiệm nếu có các sai phạm phát sinh.
Đại biểu đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo cần tiếp tục rà soát, bảo đảm xử lý đồng bộ các quy định có liên quan tại Luật Các tổ chức tín dụng; cần có sự kiểm tra, thanh tra, giám sát chặt chẽ để bảo đảm chính sách đi vào đời sống, thực sự phát huy được các mục tiêu đã đề ra khi xây dựng Luật.