Bệnh ung thư đại trực tràng đang có xu hướng “trẻ hoá”

NDO - Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ, bác sĩ Vũ Văn Khiên - Tổng Thư ký Hội Khoa học tiêu hóa Việt Nam, lối sống hiện đại với việc ăn uống thiếu lành mạnh, ít vận động, căng thẳng kéo dài là "ngòi nổ" khiến ung thư đại trực tràng bùng phát mạnh mẽ, đặc biệt ở giới trẻ.
0:00 / 0:00
0:00
Phó Giáo sư, Tiến sĩ, bác sĩ Vũ Văn Khiên - Tổng Thư ký Hội Khoa học tiêu hóa Việt Nam chia sẻ thông tin tại tọa đàm. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)
Phó Giáo sư, Tiến sĩ, bác sĩ Vũ Văn Khiên - Tổng Thư ký Hội Khoa học tiêu hóa Việt Nam chia sẻ thông tin tại tọa đàm. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Phát hiện sớm, tăng tỷ lệ sống lên đến 93%

Tại toạ đàm “Chiến lược sàng lọc, chẩn đoán và điều trị ung thư đại trực tràng tại Việt Nam” do Báo Nhân Dân phối hợp Viện Công nghệ Phacogen vừa tổ chức, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, bác sĩ Vũ Văn Khiên - Tổng Thư ký Hội Khoa học tiêu hóa Việt Nam cho biết, ung thư đại trực tràng đang là một trong những mối đe dọa hàng đầu đối với sức khỏe cộng đồng tại Việt Nam.

Theo thống kê Globocan năm 2022, nước ta ghi nhận hơn 16.000 ca mắc mới, và trên 8.400 ca tử vong do căn bệnh này - xếp thứ 4 về tỷ lệ mắc và thứ 5 về tỷ lệ tử vong trong các loại ung thư. Đáng lưu ý, tỷ lệ bệnh nhân dưới 50 tuổi được chẩn đoán ung thư đại trực tràng đã tăng lên 45% kể từ năm 1995, cho thấy xu hướng trẻ hóa rõ rệt.

“Điều khiến các bác sĩ như chúng tôi trăn trở là xu hướng “trẻ hóa” của căn bệnh này. Không chỉ người cao tuổi, mà cả những người trẻ ở độ tuổi 30-40, thậm chí 20, cũng đang trở thành nạn nhân. Lối sống hiện đại với ăn uống thiếu lành mạnh, ít vận động, căng thẳng kéo dài – chính là “ngòi nổ” khiến ung thư đại trực tràng bùng phát mạnh mẽ”, Phó Giáo sư Vũ Văn Khiên nhấn mạnh.

Theo bác sĩ Khiên, căn bệnh này thường tiến triển âm thầm, gần như không có triệu chứng ở giai đoạn đầu. Đa số bệnh nhân chỉ phát hiện bệnh khi xuất hiện các biểu hiện như đau bụng, rối loạn tiêu hóa, đi ngoài ra máu. Lúc đó, tổn thương đã ở giai đoạn tiến triển. Thực tế, nhiều ca ung thư được phát hiện tình cờ qua sinh thiết trong nội soi tầm soát khi bệnh nhân hoàn toàn không nhận biết bất kỳ bất thường nào.

Ở nhóm bệnh nhân trẻ, ung thư đại trực tràng thường diễn tiến nhanh, khó kiểm soát và ít biểu hiện sớm, khiến việc phát hiện càng khó khăn hơn. Nguyên nhân có thể là yếu tố di truyền kết hợp lối sống chưa hợp lý như lạm dụng thức ăn giàu chất béo, hút thuốc lá, thừa cân. Trong khi đó, người lớn tuổi mắc bệnh thường có tiến trình chậm hơn nhưng hay bị che mờ triệu chứng do các bệnh lý nền như tim mạch, tiểu đường.

Bệnh ung thư đại trực tràng đang có xu hướng “trẻ hoá” ảnh 1

Phó Giáo sư, Tiến sĩ, bác sĩ Vũ Văn Khiên. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Thông thường, các tổ chức y tế khuyến nghị những người từ 45 tuổi trở lên nên bắt đầu sàng lọc ung thư đại trực tràng, đặc biệt là những người có tiền sử gia đình mắc bệnh hoặc có các triệu chứng nghi ngờ. Với những người có nguy cơ cao, chẳng hạn như người mắc bệnh viêm ruột mạn tính hoặc béo phì, có thể cân nhắc sàng lọc sớm hơn.

Cùng chung nhận định này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, bác sĩ Phạm Cẩm Phương - Giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu (Bệnh viện Bạch Mai) cho hay, trong 5-10 năm trở lại đây, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu ghi nhận số lượng bệnh nhân đến khám vì nghi ngờ ung thư đại trực tràng ngày càng gia tăng, với độ tuổi mắc bệnh có xu hướng trẻ hơn so với trước đây. Tuy nhiên, đa phần người bệnh thường phát hiện ung thư đại trực tràng ở giai đoạn muộn - khi đã xuất hiện triệu chứng rõ rệt hoặc biến chứng, làm giảm hiệu quả điều trị.

“Tầm soát sớm ung thư đại trực tràng đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Tôi nhận thấy ung thư đại trực tràng thường bắt đầu từ những tổn thương rất nhỏ, như polyp – những ‘hạt giống’ tưởng chừng vô hại nhưng có thể âm thầm tiến triển thành ung thư qua nhiều năm.

Điều đáng lo là khi bệnh đã đến giai đoạn muộn, chúng tôi thấy các tế bào ung thư xâm lấn sâu vào thành ruột, lan đến hạch bạch huyết, thậm chí di căn xa tới gan hay phổi. Lúc này, cơ hội điều trị thành công giảm đi rất nhiều.

Bệnh ung thư đại trực tràng đang có xu hướng “trẻ hoá” ảnh 2

Phó Giáo sư, Tiến sĩ, bác sĩ Phạm Cẩm Phương. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Vì thế việc phát hiện sớm, ngay từ giai đoạn polyp hoặc ung thư giai đoạn đầu, có thể tăng tỷ lệ sống sót lên đến 93%. Đây chính là lý do vì sao tầm soát là ‘tấm khiên’ mạnh mẽ nhất mà chúng ta có thể sử dụng ngay hôm nay”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, bác sĩ Phạm Cẩm Phương chia sẻ.

Bác sĩ Phương lưu ý những người trên 50 tuổi và người có yếu tố nguy cơ việc sàng lọc rất quan trọng. Ung thư đại trực tràng mang yếu tố di truyền và tiền sử bệnh tật của gia đình, nên tuỳ yếu tố nguy cơ, có người 40 tuổi đã nên đi nội soi đại trực tràng để được tư vấn kịp thời.

Nhiều kỹ thuật hiện đại điều trị ung thư đại trực tràng

Bệnh nhân mắc ung thư đại trực tràng giai đoạn muộn thường có tỷ lệ sống thấp, nhưng với sự tiến bộ trong y học, nhiều bệnh nhân vẫn có thể kéo dài thời gian sống và cải thiện chất lượng cuộc sống nhờ các phương pháp điều trị hiện đại: điều trị đích, liệu pháp miễn dịch, hóa trị và xạ trị giúp kiểm soát triệu chứng và giảm đau.

Tại Bệnh viện Bạch Mai, các phác đồ điều trị cho bệnh nhân ung thư giai đoạn muộn được áp dụng linh hoạt dựa trên chẩn đoán cá thể hóa điều trị, bao gồm các phương pháp như xạ phẫu, điều trị đích và liệu pháp miễn dịch. Bệnh viện cũng áp dụng điều trị giảm nhẹ để cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân.

Theo bác sĩ Phạm Cẩm Phương, 30% số bệnh nhân đến khám đã ở giai đoạn muộn, khi ung thư đã di căn. Ở giai đoạn đầu, nhờ phát hiện sớm và cắt bỏ khối u qua nội soi, cơ hội chữa khỏi hoàn toàn là rất cao. Tuy nhiên, khi bệnh đã nặng, mục tiêu điều trị chủ yếu là kéo dài sự sống, kiểm soát triệu chứng, nâng cao chất lượng sống và giảm đau với các phương pháp chăm sóc giảm nhẹ.

Dù vậy, nhờ những tiến bộ trong điều trị, đặc biệt là cá thể hóa liệu trình cho từng người bệnh, tỷ lệ sống thêm 5 năm của bệnh nhân ung thư đại trực tràng di căn đã tăng từ 6-12 tháng lên 30-40% trong thập kỷ qua.

Phân tích kỹ hơn về những tiến bộ của công nghệ đã đem lại hiệu quả trong chẩn đoán và điều trị cho người bệnh, bác sĩ Phương cho biết, trong ung thư đại trực tràng, các công nghệ hiện đại như chụp cắt lớp vi tính (CT scan), chụp cộng hưởng từ (MRI)... đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện và chẩn đoán bệnh, đặc biệt khi bệnh đang ở giai đoạn sớm. Những tiến bộ này không chỉ giúp bác sĩ xác định chính xác sự hiện diện của khối u mà còn giúp đánh giá mức độ tiến triển của bệnh, từ đó đưa ra quyết định điều trị kịp thời và hiệu quả.

Bệnh ung thư đại trực tràng đang có xu hướng “trẻ hoá” ảnh 3
Các diễn giả tham dự tọa đàm "Chiến lược sàng lọc, chẩn đoán và điều trị ung thư đại trực tràng tại Việt Nam". (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Cùng với đó, các phương pháp điều trị mới như liệu pháp gene, liệu pháp miễn dịch và thuốc đích đã mang lại hiệu quả vượt trội so với các phương pháp truyền thống.

Cụ thể, liệu pháp gene giúp sửa chữa hoặc thay thế các gene bị lỗi, mở ra hy vọng cho các bệnh di truyền hoặc ung thư; liệu pháp miễn dịch giúp kích thích hệ miễn dịch của cơ thể để tấn công tế bào ung thư, mang lại kết quả khả quan trong điều trị các loại ung thư như ung thư phổi hay melanoma; thuốc đích để nhắm trúng các mục tiêu cụ thể trên tế bào ung thư, giảm thiểu tác dụng phụ so với hóa trị hay xạ trị. Những phương pháp này không chỉ tăng hiệu quả điều trị mà còn giúp bệnh nhân phục hồi nhanh hơn, ít chịu ảnh hưởng từ các tác dụng phụ nghiêm trọng.

Đáng chú ý, nhờ các công nghệ như giải trình tự gene và phân tích dữ liệu lớn, bác sĩ có thể thiết kế phác đồ điều trị phù hợp với đặc điểm di truyền và tình trạng sức khỏe của từng bệnh nhân. Điều này giúp tối ưu hóa hiệu quả điều trị, giảm thiểu tác dụng phụ không mong muốn và mang lại kết quả tốt nhất cho từng cá nhân.

Cuối cùng, những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị gần đây đã mang lại giá trị to lớn cho người bệnh, đó là giảm chi phí điều trị. Bởi chính việc phát hiện bệnh sớm và điều trị hiệu quả là các yếu tố giúp giảm chi phí lâu dài cho bệnh nhân.

Khi bệnh được chẩn đoán ở giai đoạn đầu, các phương pháp điều trị thường đơn giản hơn, thời gian điều trị ngắn hơn, ít tốn kém hơn và ít gây biến chứng hơn so với khi bệnh đã tiến triển nặng. Điều này không chỉ giảm gánh nặng tài chính mà còn giúp bệnh nhân duy trì chất lượng cuộc sống tốt hơn.

Cũng liên quan đến các phương pháp điều trị, bác sĩ Khiên đánh giá, việc điều trị ung thư đại trực tràng cần phải được tiếp cận toàn diện và đa phương thức. Điều trị hiện nay bao gồm phẫu thuật, hóa trị, xạ trị và điều trị nhắm mục tiêu. Sự kết hợp của các phương pháp này sẽ giúp tăng khả năng sống sót của bệnh nhân.

Theo bác sĩ Khiên, việc điều trị ung thư đại trực tràng phải tùy theo giai đoạn bệnh và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân. Việc phát hiện bệnh sớm giúp cho khả năng điều trị hiệu quả cao hơn, giảm thiểu biến chứng và kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân. Đồng thời, ông cũng nhấn mạnh sự cần thiết của việc chăm sóc tâm lý cho bệnh nhân sau phẫu thuật.

“Bệnh nhân ung thư cần được hỗ trợ không chỉ về mặt thể chất mà còn về mặt tinh thần. Hỗ trợ tâm lý giúp bệnh nhân cảm thấy lạc quan hơn trong quá trình điều trị và phục hồi," ông Khiên chia sẻ.

Sàng lọc và nâng cao nhận thức cộng đồng là chìa khóa giảm tỷ lệ mắc và tử vong

Tại toạ đàm, các chuyên gia đều nhất trí cho rằng, ung thư đại trực tràng là một bệnh nguy hiểm nhưng có thể phòng ngừa và điều trị hiệu quả nếu phát hiện sớm. Do đó sàng lọc và nâng cao nhận thức cộng đồng là chìa khóa để giảm tỷ lệ mắc và tử vong, đặc biệt tại các khu vực có tỷ lệ mắc bệnh cao và tại các bệnh viện tuyến dưới.

Từ phân tích các số liệu dịch tễ và các chương trình sàng lọc ung thư đại trực tràng đã được triển khai rộng rãi ở các quốc gia phát triển, các chuyên gia cho rằng, chiến lược sàng lọc ung thư đại trực tràng tại Việt Nam nên được định hướng theo 3 trụ cột.

Cụ thể: tăng cường truyền thông và giáo dục sức khỏe để giúp cộng đồng hiểu được nên tầm soát đại trực tràng ở độ tuổi nào theo khuyến cáo; đưa hoạt động sàng lọc lồng ghép vào khám sức khỏe định kỳ tại cơ sở y tế bởi; ưu tiên ứng dụng các phương pháp sàng lọc không xâm lấn như phương pháp xét nghiệm DNA trong phân, dễ triển khai, chi phí hợp lý.

Bác sĩ Phạm Cẩm Phương cũng nêu vấn đề sàng lọc ung thư đại trực tràng là cần thiết nhưng cũng cần tránh lạm dụng. Tại Bệnh viện Bạch Mai và một số bệnh viện khác đã triển khai những gói sàng lọc tầm soát tập trung vào một số bệnh ung thư để tránh lạm dụng chỉ định xét nghiệm.

Khi đó, các bác sĩ sẽ hỏi tiền sử bệnh tật, triệu chứng bệnh, tiền sử mắc bệnh, tiền sử gia đình, tiền sử sinh con… để xem các yếu tố nguy cơ, từ đó đưa ra những khuyến cáo cho người bệnh cần phải thăm khám chuyên sâu bệnh ung thư nào để đưa ra chẩn đoán đúng, trúng và chính xác.

Bệnh ung thư đại trực tràng đang có xu hướng “trẻ hoá” ảnh 5
Phó Giáo sư, Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Công Hoàng, Giám đốc Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, Đại biểu Quốc hội khóa XV. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Phó Giáo sư, Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Công Hoàng - Giám đốc Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, Đại biểu Quốc hội khoá XV cũng đồng ý với quan điểm không nên lạm dụng sàng lọc ung thư đại trực tràng, đặc biệt là người nghèo.

Do đó, bác sĩ phải dựa trên dấu hiệu để chỉ định sàng lọc.Hiện nay, các phương pháp tầm soát và phát hiện sớm ung thư đại trực tràng chủ yếu bao gồm nội soi đại tràng; xét nghiệm máu ẩn trong phân (FIT/FOBT); nội soi ảo đại tràng; xét nghiệm DNA đa mục tiêu trong phân và sinh thiết mô nghi ngờ.