Phó Đô đốc Trần Thanh Nghiêm, Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Hải quân

Phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm chủ quyền biển quốc gia là chủ trương chiến lược nhất quán của Đảng ta, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó có Hải quân nhân dân Việt Nam. Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Quân chủng Hải quân phải cùng các lực lượng trong toàn quân tiếp tục thực hiện tốt chức năng “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”; làm nòng cốt bảo vệ vững chắc chủ quyền, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên biển; đồng thời tích cực tham gia phát triển kinh tế kết hợp quốc phòng trên hướng biển trong những lĩnh vực, ngành nghề có tiềm năng, thế mạnh, để đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm chủ quyền biển quốc gia

Chiến sĩ tuần tra trên đảo Trường Sa

Chiến sĩ tuần tra trên đảo Trường Sa

Gặp gỡ Trường Sa.

Gặp gỡ Trường Sa.

Việt Nam là quốc gia biển, với vùng biển rộng khoảng 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, cùng hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ và bờ biển dài hơn 3.260km. Biển đảo Việt Nam là bộ phận cấu thành chủ quyền quốc gia, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế; giữ vị trí chiến lược về kinh tế, quốc phòng, an ninh (QPAN); gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Biển đảo nước ta rất giàu tài nguyên, tạo ra điều kiện rất thuận lợi và tiềm năng to lớn để phát triển các ngành kinh tế biển, mang lại giá trị cao như: Vận tải biển, du lịch, dầu khí, khai khoáng, nuôi trồng và khai thác hải sản, năng lượng tái tạo… Các vùng biển nước ta, đặc biệt là 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa được ví như những “chiến lũy thiên nhiên”, làm tăng thêm chiều sâu phòng thủ, giúp tạo khoảng không gian cần thiết để kiểm soát việc tiếp cận lãnh thổ trên đất liền.

 Quản lý, khai thác tiềm năng của biển đi đôi với bảo vệ vững chắc chủ quyền biển quốc gia, làm cho đất nước phát triển giàu mạnh, là quan điểm cơ bản, chủ trương chiến lược nhất quán của Đảng ta. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện thể chế, tạo dựng cơ sở chính trị và hành lang pháp lý để thúc đẩy phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm QPAN trên biển. Đặc biệt, Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Đảng về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã xác định quan điểm: “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm QPAN, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tăng cường đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển”.

Nghị quyết 36 đề ra những mục tiêu và giải pháp cụ thể phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Về kinh tế biển, đến năm 2030 các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65-70% GDP; phát triển bền vững kinh tế biển theo chuẩn mực quốc tế; kiểm soát khai thác tài nguyên trong khả năng phục hồi hệ sinh thái biển. Về QPAN, nghị quyết xác định xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng chính quy, tinh nhuệ theo hướng hiện đại, ưu tiên hiện đại hoá một số quân chủng, binh chủng, lực lượng thực thi pháp luật trên biển; không ngừng củng cố, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; bảo đảm năng lực xử lý tốt các tình huống trên biển, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên các vùng biển.

Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, sự nghiệp phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm chủ quyền biển quốc gia đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, nhân dân về tầm quan trọng của biển đảo, về phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển đảo từng bước nâng cao. Các ngành kinh tế biển phát triển nhanh chóng, đóng góp lớn vào nền kinh tế và trở thành động lực quan trọng phát triển đất nước. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và đời sống nhân dân vùng biển đảo không ngừng cải thiện. Công tác nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản về tài nguyên, môi trường biển; đào tạo, phát triển nguồn nhân lực biển được chú trọng, tạo việc làm ổn định, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành nghề theo hướng công nghiệp, hiện đại, bền vững. Sự gắn kết giữa phát triển kinh tế biển với bảo đảm QPAN ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, từ nghiên cứu hoạch định chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, đến đầu tư, xây dựng, phát triển sản xuất, kinh doanh. Các lực lượng quản lý, bảo vệ chủ quyền, thực thi pháp luật trên biển (Hải quân, Cảnh sát biển, Biên phòng, Kiểm ngư…) được đầu tư xây dựng, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao; thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân” trên biển được củng cố, tăng cường, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm chủ quyền biển quốc gia là chủ trương chiến lược nhất quán của Đảng ta, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó có Hải quân nhân dân Việt Nam.

Tuy nhiên, phát triển kinh tế biển, bảo đảm chủ quyền biển quốc gia vẫn còn những hạn chế, khó khăn, thách thức. Tình hình quốc tế, khu vực và Biển Đông diễn biến phức tạp, khó đoán định; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển đảo diễn ra gay gắt, tiềm ẩn nguy cơ xung đột, mất ổn định. Ở trong nước, sự phối hợp, thống nhất nhận thức và hành động về vấn đề biển đảo của một bộ phận chưa cao. Các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề phức tạp, nhạy cảm liên quan đến biển đảo để chống phá. Quá trình phát triển vẫn chưa khai thác hết tiềm năng, lợi thế của biển đảo; nước ta chưa thực sự trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển. Việc hoạch định và thực hiện các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch có thời điểm, có lĩnh vực chưa gắn kết chặt chẽ giữa kinh tế với QPAN, chưa tích hợp, tối ưu hóa các nguồn lực đầu tư, phát huy sức mạnh và sự bổ trợ cho nhau giữa các ngành, vùng kinh tế biển. Đầu tư phát triển có nơi còn dàn trải, thiếu đồng bộ, hiệu quả, liên thông giữa các bộ, ngành và các vùng, khu vực, địa phương; chưa thu hút đầu tư phát triển mạnh các ngành công nghiệp biển công nghệ cao; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Các lực lượng quản lý, bảo vệ biển còn hạn chế về trang thiết bị, phương tiện, khó duy trì sự hiện diện thường xuyên, liên tục trên toàn bộ vùng biển rộng lớn; cơ chế phối hợp, chỉ đạo, điều hành các lực lượng còn những bất cập nhất định...

Bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, sự nghiệp phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo đảm vững chắc chủ quyền biển quốc gia đang đứng trước nhiều thời cơ thuận lợi, song cũng phải đối mặt với những khó khăn thách thức đan xen. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, góp phần hiện thực hóa tầm nhìn kỷ nguyên mới, với 2 mục tiêu 100 năm của đất nước, đó là: (1) năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; (2) năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, Việt Nam trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển có thu nhập cao.

Lễ chào cờ trên đảo Trường Sa.

Lễ chào cờ trên đảo Trường Sa.

 Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải tiếp tục giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường QPAN; giữa khai thác tiềm năng, thế mạnh của biển với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia; giữa xây dựng sức mạnh, năng lực khai thác biển với sức mạnh, khả năng bảo vệ biển. “Thực túc binh cường”, kinh tế biển phát triển mạnh sẽ tạo thế và lực, tạo ra điều kiện vật chất thuận lợi để tăng cường QPAN bảo vệ biển đảo vững chắc, thống nhất, toàn vẹn. Ngược lại, QPAN được củng cố vững chắc mới bảo vệ được biển đảo, mới giữ được hòa bình, ổn định, tạo ra môi trường, không gian, điều kiện thuận lợi, an toàn cho các ngành kinh tế biển phát triển một cách hiệu quả và bền vững.

Để đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, bảo đảm chủ quyền biển quốc gia, phải tiếp tục quán triệt, cụ thể hóa và thực hiện “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Chú trọng thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của biển đảo; về phát triển kinh tế biển bền vững và mối quan hệ với bảo đảm QPAN, chủ quyền biển quốc gia trong tình hình mới. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch tổng thể kết hợp giữa phát triển kinh tế với QPAN vùng biển và ven biển. Thu hút nguồn lực phát triển những ngành kinh tế nền tảng, mũi nhọn, hình thành các khu kinh tế, khu công nghiệp và đô thị ven biển hiện đại. Phát triển dựa trên nền tảng kinh tế biển xanh, “kinh tế tuần hoàn”, gắn với bảo tồn hệ sinh thái biển, bảo vệ tài nguyên môi trường. Nghiên cứu, ứng dụng, phát triển khoa học công nghệ, đào tạo nhân lực chất lượng cao về biển; nghiên cứu, điều tra cơ bản tài nguyên, dự báo, cảnh báo thiên tai, quan trắc, giám sát môi trường biển, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, thích ứng biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Tiếp tục quan tâm đầu tư xây dựng lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân trên biển vững mạnh, trong đó Hải quân nhân dân Việt Nam làm nòng cốt. Xây dựng cơ sở hạ tầng biển đảo hiện đại, đồng bộ, lưỡng dụng, vừa bảo đảm nhiệm vụ QPAN, vừa phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân”, phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo và phát triển bền vững kinh tế biển trong kỷ nguyên mới.

Vai trò của Hải quân nhân dân Việt Nam

Hải quân nhân dân Việt Nam được thành lập ngày 7/5/1955. Trải qua 70 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, Quân chủng Hải quân đã lập rất nhiều chiến công xuất sắc, đặc biệt xuất sắc: Đánh thắng trận đầu ngày 2 và 5/8/1964; cùng quân dân miền bắc 2 lần đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ; làm nòng cốt, đi đầu chống đế quốc Mỹ phong tỏa sông biển miền bắc; mở Đường Hồ Chí Minh trên biển vận chuyển chi viện miền nam; xây dựng lực lượng đặc công nước chiến đấu ở Cửa Việt - Đông Hà; tham gia Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng miền nam, giải phóng quần đảo Trường Sa; hoàn thành nhiệm vụ quốc tế với nước bạn Lào, Campuchia; xây dựng Quân chủng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”, làm nòng cốt bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên biển để đất nước phát triển.

Cùng với hoàn thành tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, Quân chủng Hải quân luôn tích cực tham gia sản xuất, làm kinh tế. Đây cũng là một trong những bài học sâu sắc để Quân chủng không ngừng phát triển và trưởng thành, làm tròn chức năng “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”. Đặc biệt, là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền biển đảo, bộ đội Hải quân thường xuyên hoạt động trên biển, có kiến thức am hiểu về biển, được trang bị những phương tiện kỹ thuật chuyên dụng, biết phát huy tiềm năng, thế mạnh trong thực hiện chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng, phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển quốc gia.

Bộ đội Trường Sa luôn duy trì nghiêm chế độ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu.

Bộ đội Trường Sa luôn duy trì nghiêm chế độ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu.

Ngay trong thời kỳ chiến tranh, bộ đội Hải quân đã phát huy tinh thần tự lực tự cường, vừa xây dựng, vừa chiến đấu, tranh thủ tăng gia, lao động sản xuất, cải thiện đời sống, tạo nguồn lực sửa chữa vũ khí trang bị, bổ sung phương tiện. Khi đất nước hòa bình thống nhất, Quân chủng Hải quân có điều kiện thuận lợi để tham gia hiệu quả hơn vào nhiệm vụ phát triển kinh tế quốc phòng biển đảo. Thực chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về kết hợp kinh tế với quốc phòng, ngay từ năm 1976, Thường vụ Đảng ủy Quân chủng đã ban hành Nghị quyết 431/ĐU về tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế, trong đó xác định: “Phương hướng chính của Hải quân tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế là hướng biển, lấy phát triển đánh cá, khai thác hải sản là trọng tâm, tham gia thăm dò khai thác dầu khí vận tải là quan trọng, đồng thời đẩy mạnh khả năng làm công nghiệp của các xí nghiệp, tích cực tham gia xây dựng cơ bản và tận dụng điều kiện và kết hợp mọi khả năng để đẩy mạnh sản xuất, chăn nuôi”. Đồng thời, căn cứ vào nhiệm vụ xây dựng kinh tế Chính phủ giao cho Quân đội, Quân chủng đã tổ chức ra Cục Xây dựng kinh tế để giúp tham mưu, chỉ đạo, triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế biển. Sự ra đời của Cục Xây dựng kinh tế đánh dấu bước phát triển mới về thành phần lực lượng của Quân chủng Hải quân, cụ thể hoá đường lối lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mà trước hết là đổi mới về tư duy kinh tế do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.

Từ khi được Chính phủ, Quân đội giao nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế (1976) đến nay, Quân chủng Hải quân luôn xác định tham gia lao động sản xuất là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm, không tách rời nhiệm vụ quân sự quốc phòng. Quân chủng thường xuyên quán triệt, thực hiện nghiêm các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; chỉ đạo các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế quốc phòng phát huy nội lực, khắc phục khó khăn, đổi mới sáng tạo, khai thác mọi nguồn lực, tiềm năng, thế mạnh, sản xuất kinh doanh có chất lượng, hiệu quả, gắn chặt với nhiệm vụ quân sự quốc phòng, bảo vệ chủ quyền biển đảo và nguồn tài nguyên của đất nước. Tích cực xây dựng và phát triển một số loại hình sản xuất, làm kinh tế có hiệu quả, mang tính tiên phong, lưỡng dụng, gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển đảo.

Quân chủng xây dựng được một số doanh nghiệp, đơn vị làm kinh tế quốc phòng mạnh trong các lĩnh vực: dịch vụ khai thác cảng biển và logistics; đóng và sửa chữa tàu biển; dịch vụ bảo vệ thăm dò, khai thác dầu khí; xây dựng, sửa chữa các công trình biển và ngoài khơi; đánh bắt và nuôi trồng hải sản; cung ứng dịch vụ hậu cần nghề cá; du lịch biển đảo… Các ngành nghề sản xuất kinh doanh đã tạo ra nguồn thu rất lớn, đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước, đồng thời tạo nguồn lực nâng cao đời sống bộ đội, hỗ trợ đầu tư phương tiện, trang thiết bị cho nhiệm vụ quân sự quốc phòng. Tiêu biểu phải kể đến Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn, nhà khai thác cảng và dịch vụ logistics lớn nhất Việt Nam, top 16 cụm cảng container có sản lượng thông qua lớn nhất thế giới, một trong những thương hiệu mạnh của quốc gia trong lĩnh vực kinh tế biển. Cùng với đó là các nhà máy đóng và sửa chữa tàu; các hải đoàn kinh tế quốc phòng có các đội tàu đánh cá công ích, đội tàu dịch vụ, trung tâm dịch vụ hậu cần - kỹ thuật nghề cá…

Để góp phần phát triển kết cấu hạ tầng biển đảo, Quân chủng Hải quân đã tham mưu đề xuất Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng triển khai các đề án, dự án lớn, các công trình chiến lược, lưỡng dụng, như cầu cảng, sân bay, âu tàu, làng chài, khu kinh tế quốc phòng biển đảo, công trình phòng thủ… góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, tăng cường tiềm lực quốc phòng trên biển. Đồng thời, các lực lượng của Quân chủng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trên biển, thường xuyên hỗ trợ, bảo vệ an toàn các hoạt động kinh tế biển; tích cực tham gia công tác tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, nhất là ở các vùng biển xa, với tinh thần “cứu giúp nhân dân là nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình, là mệnh lệnh trái tim”; cung cấp dầu, nước ngọt, lương thực, thực phẩm cho các tàu cá, giúp ngư dân yên tâm vươn khơi bám biển, tăng cường hiện diện trên biển, đặc biệt là vùng biển xa bờ…

Các đoàn công tác ra thăm, kiểm tra và động viên quân và dân Trường Sa vững tay súng bảo vệ biển đảo Tổ quốc.

Các đoàn công tác ra thăm, kiểm tra và động viên quân và dân Trường Sa vững tay súng bảo vệ biển đảo Tổ quốc.

Hiện nay, đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Để góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp phát triển kinh tế biển, bảo vệ chủ quyền biển quốc gia, Hải quân nhân dân Việt Nam phải tiếp tục làm tốt chức năng, nhiệm vụ của một “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất” trong điều kiện mới, hoàn cảnh mới.

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ “đội quân chiến đấu”, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và Biển Đông diễn biến phức tạp, khó dự báo, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo ngày càng nặng nề, Quân chủng Hải quân tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Nghị quyết 36-NQ/TW về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Thường xuyên nêu cao cảnh giác, nghiên cứu, dự báo chính xác tình hình; chủ động tham mưu, đề xuất với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng những chủ trương, giải pháp cơ bản, chiến lược, lâu dài về biển đảo; xử trí các tình huống đúng đối sách, không để bị động bất ngờ, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo, các hoạt động kinh tế biển, các quyền và lợi ích quốc gia, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên biển để đất nước phát triển giàu mạnh trong kỷ nguyên mới. Tiếp tục nghiên cứu tham mưu, đề xuất với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển vững mạnh, có chiều sâu, liên hoàn bờ-biển-đảo, chuyển hóa linh hoạt, trong đó Quân chủng Hải quân làm nòng cốt, thực sự “tinh, gọn, mạnh”, “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”, có trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu ngày càng cao.

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ “đội quân công tác”, Quân chủng Hải quân phải coi trọng làm tốt công tác dân vận trong tình hình mới, nhất là ở các địa bàn trọng yếu, chiến lược, biên giới, biển đảo. Trọng tâm là phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với các ban, bộ, ngành, đơn vị, địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền biển đảo, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của biển đảo Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước ta về phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. Gắn tuyên truyền biển đảo với tuyên truyền thu hút nguồn lực xây dựng Quân chủng hiện đại. Kiên quyết đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề phức tạp, nhạy cảm liên quan tới biển đảo để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Tiếp tục thực hiện tốt chương trình “Hải quân Việt Nam làm điểm tựa cho ngư dân vươn khơi bám biển”, hoạt động “Hải quân nhận đỡ đầu con ngư dân”; giúp đỡ nhân dân phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” trên biển, tạo sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo và phát triển bền vững kinh tế biển. Đồng thời quán triệt, thực hiện có hiệu quả đường lối, chính sách đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước; thúc đẩy đối ngoại quốc phòng với quân đội và hải quân các nước đi vào chiều sâu, thực chất, cả trên bình diện đa phương và song phương, nhất là quan hệ với hải quân các nước ASEAN, nước lớn, bạn bè, đối tác truyền thống; cùng hải quân các nước tăng cường hiểu biết, tin cậy, xây dựng các vùng biển hòa bình, ổn định; nâng cao vị thế, uy tín của Hải quân nhân dân Việt Nam, tạo môi trường quốc tế thuận lợi để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ “đội quân lao động sản xuất”, Quân chủng Hải quân phải quán triệt thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng. Tiếp tục cơ cấu lại, sắp xếp, đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực thực hiện nhiệm vụ quân sự quốc phòng. Xây dựng đội ngũ doanh nhân Hải quân vững mạnh; trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao; sắp xếp tổ chức bộ máy doanh nghiệp tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Phát huy thế mạnh các ngành nghề (đóng, sửa chữa tàu, phương tiện thủy; khai thác cảng, dịch vụ logistics; bảo vệ hoạt động dầu khí trên biển…). Tổ chức tốt hoạt động dịch vụ hậu cần nghề cá, làm điểm tựa vững chắc cho ngư dân vươn khơi, bám biển; đẩy mạnh thực hiện các đề án, dự án xây dựng cơ sở hạ tầng lưỡng dụng trên các vùng biển đảo.

Các doanh nghiệp tích cực nghiên cứu, phát triển khoa học, ứng dụng công nghệ tiên tiến, quản trị số, phát triển hạ tầng số, khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên số; đào tạo, tuyển chọn cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi; phòng chống lãng phí, khơi thông nguồn lực và tiềm năng, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Triển khai đề án phát triển Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn thành Binh đoàn kinh tế biển dựa trên trên 3 trụ cột truyền thống (khai thác cảng; dịch vụ logistics; vận tải và các ngành kinh tế biển) và mở rộng thêm 2 trụ cột mới (đầu tư kinh doanh khu công nghiệp; dịch vụ du lịch biển đảo và phát triển năng lượng tái tạo ngoài khơi), xây dựng hệ sinh thái kết nối liền mạch giữa sản xuất, logistics và tối ưu hóa chi phí, góp phần quan trọng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước đạt 8% năm 2025 và đạt 2 con số trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển quốc gia là nhiệm vụ chiến lược đặc biệt quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Thời gian tới, Quân chủng Hải quân tiếp tục xây dựng lực lượng “tinh, gọn, mạnh”, “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, thực sự làm nòng cốt bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, đồng thời tích cực tham gia phát triển kinh tế quốc phòng biển đảo, góp phần đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, thịnh vượng.

Trình bày: Phùng Trang
Ảnh:
Báo Nhân Dân; Báo Hải quân Việt Nam; TTXVN