
NGHỆ THUẬT NGHI BINH TẠO THẾ TRONG CHIẾN DỊCH TÂY NGUYÊN
Đại tá PGS, TS Hoàng Xuân Nhiên - Khoa Chiến lược, Học viện Quốc phòng

Chiến dịch Tây Nguyên là chiến dịch - chiến lược mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Thắng lợi to lớn của chiến dịch này không chỉ làm rúng động thế trận của địch, dẫn đến sự suy sụp, tan rã từng mảng lớn về chiến lược của địch; tạo ra những thuận lợi cho các chiến dịch tiến công gối đầu và kế tiếp của ta giành thắng lợi nhanh chóng trên chiến trường Huế, Đà Nẵng, cũng như mở ra thời cơ Tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mà còn để lại nhiều nét đặc sắc, sáng tạo về nghệ thuật quân sự, có giá trị đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay... Trong đó, nghi binh lừa địch để tạo lập thế ta - phá thế địch, điều khiển địch theo ý định của ta là một nét đặc sắc nổi bật. Dưới đây là ý kiến trao đổi về nét đặc sắc đó:
Trong kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976, quyết tâm của Bộ Chính trị là hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam, nhưng năm 1975 là năm bản lề tạo điều kiện cho năm 1976 giành thắng lợi cuối cùng. Hướng chiến lược của bộ đội chủ lực trong năm 1975 được dự kiến mở ra trên hai hướng: Miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Sau nhiều lần bàn bạc, trao đổi, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã xác định chiến trường Tây Nguyên là hướng chiến lược chủ yếu - nơi ta tiến hành chiến dịch Tây Nguyên với điểm đột phá mở đầu là trận tiến công địch ở thị xã Buôn Ma Thuột.
Để lập thế ta - phá thế địch, lừa địch và điều khiển địch theo ý định của ta, tạo thuận lợi cho chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng, Bộ Tổng tư lệnh cho Quân đoàn 2 và Quân đoàn 4 tăng cường, củng cố thế bố trí trên hai địa bàn chiến lược quan trọng của địch là Huế - Đà Nẵng và đông bắc Sài Gòn, buộc đối phương phải để Sư đoàn lính thủy đánh bộ giữ Sài Gòn (thủ đô của chính quyền Sài Gòn) và Sư đoàn dù giữ Đà Nẵng (nơi có khu liên hợp quân sự mạnh nhất của địch); chỉ khi nào hai Quân đoàn (4 và 2) của ta đã chắc chắn kìm được địch ở hai đầu chiến tuyến thì chiến dịch Tây Nguyên mới được nổ súng và chỉ khi ta kìm được Sư đoàn 23 nguỵ “yên vị” ở Plei Ku thì cuộc tiến công vào Buôn Ma Thuột mới chính thức bắt đầu…
Hình thế dàn trận chiến lược kìm địch ở Sài Gòn và Huế - Đà Nẵng cũng là một hành động nghi binh chiến lược cho đòn Tây Nguyên - Buôn Ma Thuột.
Rõ ràng “Hình thế dàn trận chiến lược kìm địch ở Sài Gòn và Huế - Đà Nẵng cũng là một hành động nghi binh chiến lược cho đòn Tây Nguyên - Buôn Ma Thuột”[1]. Cùng thời gian đó, Bộ Tổng tư lệnh còn chỉ đạo lực lượng vũ trang ta trên chiến trường Trị - Thiên, miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long tích cực đánh địch, hình thành thế trận “rất lợi hại” nhằm phân tán địch, buộc địch phải cùng lúc căng lực lượng đối phó với chiến tranh nhân dân của ta trên nhiều vùng chiến thuật khác nhau và làm cho chúng càng khó phán đoán đâu là hướng chiến lược chủ yếu của ta, cũng như tổ chức, bố trí chủ lực của ta trong năm 1975 ra sao... Như vậy, các hoạt động nghi binh chiến lược vừa góp phần đánh lừa phán đoán, nhận định của địch, vừa góp phần căng kéo, phân tán chủ lực địch ra hai đầu Nam - Bắc chiến tuyến (Huế - Đà Nẵng và Sài Gòn) để hở quãng giữa (miền Trung và Tây Nguyên), hạn chế tối đa lực lượng tổng trù bị chiến lược của địch đi ứng cứu cho lực lượng của chúng ở Tây Nguyên.
Bằng mọi phương tiện thô sơ và cơ giới, các chiến sĩ vận tải Tây Nguyên vận chuyển hàng hóa phục vụ chiến dịch (1975). (Ảnh: Thanh Tụng/TTXVN)
Bằng mọi phương tiện thô sơ và cơ giới, các chiến sĩ vận tải Tây Nguyên vận chuyển hàng hóa phục vụ chiến dịch (1975). (Ảnh: Thanh Tụng/TTXVN)
Bộ đội Gia Lai hành quân trên Đường 19 (1975). (Ảnh: Xuân Quyết/TTXVN)
Bộ đội Gia Lai hành quân trên Đường 19 (1975). (Ảnh: Xuân Quyết/TTXVN)
Các đơn vị xe tăng và bộ binh cơ giới tiến vào giải phóng Buôn Ma Thuột (1975). (Ảnh: Anh Tôn/TTXVN)
Các đơn vị xe tăng và bộ binh cơ giới tiến vào giải phóng Buôn Ma Thuột (1975). (Ảnh: Anh Tôn/TTXVN)
Trong khi đó, ở chiến trường Tây Nguyên, công tác chuẩn bị cho chiến dịch Tây Nguyên, nhất là chuẩn bị cho trận đánh mở đầu đột phá ở Buôn Ma Thuột đã được diễn ra một cách bí mật, nhịp độ ngày một khẩn trương và quy mô ngày càng lớn. Tuy nhiên, bước vào chiến dịch Tây Nguyên, nhìn toàn cục, lực lượng ta chưa hơn hẳn lực lượng địch. Để bảo đảm cho trận đột phá mở đầu chiến dịch Tây Nguyên chắc thắng, theo tinh thần Nghị quyết của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh và Bộ chỉ huy Mặt trận Tây Nguyên tích cực tổ chức, chỉ đạo hoạt động nghi binh để tạo thế ta, phá thế địch, bằng cách: Sử dụng Sư đoàn 3, Trung đoàn 95A, Trung đoàn 25 cùng bộ đội địa phương trên địa bàn đánh cắt giao thông trên các trục đường huyết mạch (Đường 19, 21 và 14) nhằm chia cắt địch ở Tây Nguyên với đồng bằng ven biển; địch ở Bắc Tây Nguyên với Nam Tây Nguyên. Bộ Tổng tư lệnh còn bí mật tăng cường cho Mặt trận Tây Nguyên hai sư đoàn, một trung đoàn và một số lực lượng binh chủng của Đoàn 559... Như vậy, cùng với các hoạt động nghi binh tạo thế ta, phá thế địch, việc ta bí mật điều động 2 sư đoàn lên Tây Nguyên (nhưng chưa vội thành lập quân đoàn) là mưu kế rất hay của Bộ Tổng tư lệnh, nó không chỉ đột ngột tạo nên lực lượng mạnh cho chiến dịch Tây Nguyên[2], mà còn góp phần lừa địch, tạo nên bất ngờ lớn đối với địch trong trận đột phá mở đầu vào Buôn Ma Thuột.
Đặc biệt, để tạo thuận lợi cho trận mở đầu - trận then chốt quyết định tiến công vào Buôn Ma Thuột, Quân ủy Trung ương đã chỉ đạo “phải nghi binh rất nhiều để làm cho địch tập trung sự chú ý vào việc bảo vệ phía Bắc Tây Nguyên”[3]. Quán triệt tinh thần đó, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (B3), tiếp sau là Đảng ủy, Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên đã tích cực dùng mưu kế lừa địch bằng cách chỉ đạo cho các đơn vị thực hiện một kế hoạch nghi binh nhằm điều địch lên hướng Bắc, đồng thời ta bí mật cơ động lực lượng về hướng nam. Cụ thể: Để giữ bí mật công tác chuẩn bị chiến dịch và cơ động lực lượng vào cài thế trên các hướng, một kế hoạch nghi binh tuyệt mật mang mật danh “Kế hoạch tác chiến B” đã được Bộ Tư lệnh chiến dịch triển khai thống nhất, chặt chẽ, liên tục trên diện rộng, với nhiều lực lượng tham gia. Mục đích của kế hoạch này là: Tranh thủ tiêu hao, tiêu diệt một số sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch trên một số điểm trọng yếu; giam chân, thu hút, căng kéo chủ lực địch ở tại chỗ, không cho địch cơ động lực lượng về khu vực Đức Lập, Gia Nghĩa, Thuần Mẫn; luôn luôn làm cho địch hiểu lầm rằng ta triển khai đánh Kon Tum, cắt Đường 19 đông, uy hiếp Plei Ku; tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho các hướng Đức Lập, Gia Nghĩa, Thuần Mẫn triển khai các mặt chuẩn bị. Bộ Tư lệnh chiến dịch cử Tham mưu phó Hồng Sơn ở lại hậu cứ (tây Plei Ku) trực tiếp điều hành kế hoạch nghi binh.
Đánh giá về kết quả tác chiến nghi binh lừa địch của Sư đoàn 968, trong Hồi ký chiến đấu ở Tây Nguyên, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo nhận xét: “Sư đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc”.
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo
Trên thực tế, nghi binh lừa địch, giữ bí mật, giành yếu tố bất ngờ là một trong những mặt công tác đã được tiến hành có hiệu quả nhất trong chiến dịch Tây Nguyên, nhưng cũng căng thẳng nhất và phải dồn tâm trí rất nhiều, nhất là trong giai đoạn chuẩn bị. Điển hình là, theo “Kế hoạch tác chiến B”, Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 10 sử dụng pháo binh bắn vào Kon Tum, đánh nhỏ quanh thị xã; Sư đoàn 320 đánh nhỏ trên Đường 14, sử dụng pháo binh bắn vào La Sơn, Thanh An; Trung đoàn 95 đánh vào từng tốp xe của địch trên Đường 19 ở đông thị xã Plei Ku; Trung đoàn Đặc công 198 tập kích kho xăng Plei Ku... Đồng thời, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã bí mật đưa Sư đoàn 968 từ Nam Lào về Tây Nguyên thay thế vị trí của Sư đoàn 10, Sư đoàn 320; còn hai sư đoàn (Sư đoàn 10 và 320) khi hành quân vào Đắc Lắc đã để lại toàn bộ cụm điện đài và báo vụ viên ở lại vị trí cũ, hằng ngày, báo vụ viên của cụm điện đài này vẫn tiếp tục phát đi các bức điện “báo cáo tình hình như thường lệ”.
Đặc biệt, ngay từ đầu tháng 2 năm 1975, sau khi nhận bàn giao chiến trường Sư đoàn 968 đã bắt đầu tiến hành nhiệm vụ nghi binh lừa địch, bằng cách tiếp tục duy trì hoạt động của Sư đoàn 10, Sư đoàn 320 trên các hướng đó; đồng thời, tăng cường cử cán bộ đi trinh sát, tổ chức bắt tù binh và tiến hành các trận đánh diệt chốt tiền tiêu của địch ở bên ngoài thị xã Plei Ku để địch lầm tưởng rằng Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 vẫn chưa di chuyển; cũng trong thời gian đó, Sư đoàn 968 còn tiến hành một loạt những trận đánh “bài bản” theo kiểu “đột phá lần lượt” trước khi đánh vào mục tiêu chính, thậm chí có cả pháo lớn tham gia (cách triển khai tác chiến như là có nhiều sư đoàn sắp đánh vào Plei Ku)... Đánh giá về kết quả tác chiến nghi binh lừa địch của Sư đoàn 968, trong Hồi ký chiến đấu ở Tây Nguyên, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo nhận xét: “Sư đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc”.
Để giữ bí mật công tác chuẩn bị chiến dịch và cơ động lực lượng vào cài thế trên các hướng, một kế hoạch nghi binh tuyệt mật mang mật danh “Kế hoạch tác chiến B” đã được Bộ Tư lệnh chiến dịch triển khai thống nhất, chặt chẽ, liên tục trên diện rộng, với nhiều lực lượng tham gia. Mục đích của kế hoạch này là: Tranh thủ tiêu hao, tiêu diệt một số sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch trên một số điểm trọng yếu; giam chân, thu hút, căng kéo chủ lực địch ở tại chỗ, không cho địch cơ động lực lượng về khu vực Đức Lập, Gia Nghĩa, Thuần Mẫn; luôn luôn làm cho địch hiểu lầm rằng ta triển khai đánh Kon Tum, cắt Đường 19 đông, uy hiếp Plei Ku; tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho các hướng Đức Lập, Gia Nghĩa, Thuần Mẫn triển khai các mặt chuẩn bị. Bộ Tư lệnh chiến dịch cử Tham mưu phó Hồng Sơn ở lại hậu cứ (tây Plei Ku) trực tiếp điều hành kế hoạch nghi binh.
Sở chỉ huy Mặt trận Tây Nguyên, tháng 3/1975. (Ảnh: TTXVN)
Sở chỉ huy Mặt trận Tây Nguyên, tháng 3/1975. (Ảnh: TTXVN)
Cùng với hoạt động nghi binh của Sư đoàn 968, từ tháng 9 năm 1974, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã sử dụng Trung đoàn công binh 7 kết hợp với dân công của các huyện 40, 67, 30, 80, Diên Bình, Tân Cảnh của Kon Tum và các huyện 4, 5 của Gia Lai rầm rộ đi làm đường giả hướng vào thị xã Kon Tum và Plei Ku; mở tuyến đường song song với Đường 14 và nối với Đường 19 ở phía tây Plei Ku; mở kéo dài Đường số 220 từ bắc Kon Tum nối với Đường số 19 ở phía đông Plei Ku; kéo dài Đường 150 và tăng cường sửa chữa đường Đông Trường Sơn...
Voi Tây Nguyên tham gia vận chuyển gỗ cho chiến dịch (1975). (Ảnh: Xuân Vi/TTXVN)
Voi Tây Nguyên tham gia vận chuyển gỗ cho chiến dịch (1975). (Ảnh: Xuân Vi/TTXVN)
Trong hoạt động nghi binh, ta đã giữ được bí mật đến mức người dân trên địa bàn cũng cứ tưởng bộ đội sắp tiến đánh Kon Tum. Ngay cả khi Bộ Tư lệnh mặt trận giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 968 đánh đồn Tầm và quận lỵ Thanh An, đồng chí Thượng tá Thanh Sơn - Phó Tham mưu trưởng sư đoàn còn hỏi lại “Sư đoàn 968 đánh thật hay là đánh giả”... Thành công đó đã làm cho địch càng phán đoán ta chuẩn bị đánh Kon Tum, chúng đã dồn sức đánh phá ngăn cản ta làm đường và sẵn sàng đối phó với các sư đoàn chủ lực của ta.
Đặc biệt, chỉ riêng về nghi binh thông tin đã là một kỳ tích mà sau này Trung tướng Sác-lơ Tai-mít (cố vấn của Tổng thống ngụy - Nguyễn Văn Thiệu), phải thú nhận: “Bằng nghi binh qua làn sóng điện, Việt Nam đã thành công trong kế hoạch giam chân bộ phận chủ yếu của quân đội Sài Gòn thuộc Quân khu 2 ở Plei Ku và Kon Tum”[4] (Bài đăng trên Tạp chí quân sự Mỹ).
Bằng nghi binh qua làn sóng điện, Việt Nam đã thành công trong kế hoạch giam chân bộ phận chủ yếu của quân đội Sài Gòn thuộc Quân khu 2 ở Plei Ku và Kon Tum.
Trong khi hoạt động nghi binh của ta làm cho địch liên tục mắc phải những sai lầm trong nhận định, phán đoán và hành động, thì Bộ tư lệnh chiến dịch đã tổ chức cho Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 cùng lực lượng binh chủng của ta bí mật cơ động xuống Nam Tây Nguyên... Để lừa địch, trước khi hành quân chính thức, Sư đoàn 10 đã dành 15 ngày cho các đơn vị di chuyển theo kiểu đèn cù, thay đổi chỗ ở cho nhau nhiều lần. Khi thời cơ đến, ta cho Sư đoàn 10 cơ động bằng ô tô, chuyển một mạch vào Đức Lập. Đầu tháng 2, Sư đoàn 320 cũng bí mật hành quân vào khu tập kết ở phía Tây Ea H’Leo. Đồng thời, để tăng cường sự chú ý của địch ở Bắc Tây Nguyên, ta đã để lại 1 tiểu đoàn công binh cùng với lực lượng công binh của Đoàn 559 và lực lượng vũ trang địa phương duy trì đều đặn nhịp độ mở đường ở Bắc Tây Nguyên; hai trung đoàn công binh (7 và 575) cũng được lệnh bí mật làm đường cơ động hướng vào các mục tiêu ở Đức Lập, Gia Nghĩa và Buôn Ma Thuột (ở Nam Tây Nguyên); làm đường đến đâu ta tổ chức nguỵ trang đến đó; đoạn đường còn lại được trinh sát kỹ và chuẩn bị chu đáo (các cây to được cưa sát gốc 3/4 đường kính của cây) để khi có lệnh, công binh chỉ cần mở cấp tốc trong vòng 10 tiếng đồng hồ là đường được hoàn thành.
Nhân dân Tây Nguyên cùng bộ đội kéo pháo để đánh chiếm các điểm cao ở Pleiku trong Chiến dịch Tây Nguyên, mở màn Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. (Ảnh: TTXVN)
Nhân dân Tây Nguyên cùng bộ đội kéo pháo để đánh chiếm các điểm cao ở Pleiku trong Chiến dịch Tây Nguyên, mở màn Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. (Ảnh: TTXVN)
Đến tháng 2 năm 1975, các hoạt động nghi binh “hư hư, thật thật” của ta đã làm cho địch “bán tín, bán nghi”, nhất là, chúng vẫn chưa phát hiện rõ rệt ý định chiến dịch - chiến lược của ta; thậm chí, đến ngày ta nổ súng, địch vẫn không biết Sư đoàn 316 - lực lượng dự bị chiến lược của Bộ được tăng cường cho chiến dịch đã hành quân từ Nghệ An vào thẳng Đắk Lắk. Suốt chặng đường hành quân, Sư đoàn không dùng điện đài vô tuyến điện, không để lộ phiên hiệu. Đến chiến trường, Sư đoàn được bố trí giấu quân ở khu rừng già bờ tây sông Sê rê pốc… Có thể nói, các hoạt động nghi binh rầm rộ nhằm điều địch lên hướng Bắc, đồng thời ta bí mật cơ động lực lượng về hướng nam đã góp phần quan trọng làm địch lầm tưởng mùa Xuân 1975 trên chiến trường Tây Nguyên ta đang chuẩn bị tiến công vào Kon Tum hoặc Plei Ku và “gần như chúng loại trừ khả năng Buôn Ma Thuột bị tiến công khỏi kế hoạch tác chiến trong năm 1975 của Quân khu 2 nguỵ”[5].
Tuy có lúc địch đã phán đoán ta sẽ đánh Đức Lập, nhất là khi tình báo địch phát hiện Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 đã ăn Tết trước, đang vào Nam Tây Nguyên, Trung đoàn bộ binh 25 của ta chuẩn bị xuống Đường 21 và sau khi chúng bắt được cuốn sổ tay của một chiến sỹ ta (đánh rơi) có ghi chép một số thông tin liên quan đến Buôn Ma Thuột thì địch phán đoán ta có thể chuẩn bị đánh Buôn Ma Thuột và chúng đã cho Trung đoàn 53 nguỵ lùng sục ở phía Bắc thị xã, khu vực Quảng Nhiêu - Mê Van, thậm chí đã đánh nhau với bộ phận trinh sát của ta, bắt được 1 chiến sĩ bị thương nặng đem về Plei Ku khai thác.
Cũng vào thời điểm tháng 2 năm 1975, một chiến sĩ của ta đào ngũ đã khai với địch: Sư đoàn 10 đang chuẩn bị đánh Đức Lập, Sư đoàn 320 đang ở Ea H’Leo chuẩn bị đánh Thuần Mẫn, một lực lượng khác đang chuẩn bị đánh Buôn Ma Thuột, nhưng tình báo Mỹ lại khẳng định Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 vẫn còn ở chỗ cũ; ngay lập tức, ta cho phát một bức điện gửi các đơn vị của ta với nội dung “địch đã bị mắc lừa, cho rằng ta sẽ đánh Buôn Ma Thuột nên đã điều quân xuống phía Nam”[6]…
Những thông tin có nội dung trái ngược nhau làm cho Phạm Văn Phú (Tư lệnh quân đoàn 2 ngụy) rất hoang mang, không biết nên tin lời khai của tên đào ngũ, hay tin vào nguồn tin kỹ thuật vô tuyến điện do chúng thu được... Nhưng khi ta cho Sư đoàn 320 tạm lùi đội hình về phía tây để tránh đụng độ với Trung đoàn 45 của địch và tiếp tục cho Sư đoàn 968 sử dụng pháo lớn đánh mạnh vào tây nam thị xã Plei Ku, đồng thời cho lực lượng bộ binh tiến công các vị trí xung quanh Plei Ku, sử dụng dân công tỉnh Gia Lai tích cực làm đường, làm trận địa pháo và phao tin ta đang chuẩn bị đánh Plei Ku… thì địch đã tin chắc rằng ta sẽ đánh Plei Ku và vội vã đưa quân đến tiếp viện.
Xe tăng quân giải phóng tiến đánh thị xã Buôn Ma Thuột, ngày 10/3/1975. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Xe tăng quân giải phóng tiến đánh thị xã Buôn Ma Thuột, ngày 10/3/1975. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Không chỉ có vậy, nghệ thuật nghi binh, điều địch của ta thành công đến mức khi chiến dịch tiến công Tây Nguyên đã bắt đầu (ngày 4 tháng 3 năm 1975), mà đến ngày 6 tháng 3, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn và CIA vẫn khẳng định: “Hướng đối phó chính vẫn là Plei Ku và Kon Tum. Chúng cho rằng hành động cắt Đường số 19, 14 và 21 chỉ là hoạt động phối hợp của ta”[7].
Thậm chí, khi ta nổ súng tiến công quân lỵ Thuần Mẫn (8.3) và đánh quận lỵ Đức Lập (9.3) tức là thời điểm Buôn Ma Thuột đã bị phơi ra trước mũi súng của bộ đội ta mà tướng ngụy - Phạm Văn Phú vẫn không đoán biết được ý đồ tác chiến của ta. Chỉ đến thời điểm 04 giờ sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, khi xe tăng của ta đã tiến vào Buôn Ma Thuột, tướng Phạm Văn Phú mới biết Buôn Ma Thuột là mục tiêu chính của ta thì đã quá muộn.
Ngay cả đại tá Vũ Thế Quang - Sư đoàn phó Sư đoàn 23 nguỵ được giao làm Tư lệnh mặt trận Buôn Ma Thuột khi thấy pháo binh và đặc công ta nổ súng tiến công vào các mục tiêu trong thành phố Buôn Ma Thuột lúc 2 giờ sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, vẫn còn nhận định rằng: “Việt Cộng chỉ pháo kích thị xã, đến sáng sẽ phải rút”. Chỉ đến khi ta chiếm được Buôn Ma Thuột (ngày 11 tháng 3), địch mới vội điều quân từ Plei Ku đến ứng cứu trong thế bị động; do đó, Sư đoàn 23 nguỵ tiếp tục bị ta tiêu diệt, lực lượng còn lại của Quân đoàn 2 nguỵ cũng lần lượt tan rã khi bị ta truy kích quyết liệt ở khu vực Cheo Reo - Củng Sơn (17 – 23.3.1975)…
Quân giải phóng chiếm nhiều xe tăng của địch. (Ảnh: TTXVN)
Quân giải phóng chiếm nhiều xe tăng của địch. (Ảnh: TTXVN)
Dân quân địa phương tham gia chống lầy, mở đường cho xe tăng quân giải phóng xuất kích trong Chiến dịch Tây Nguyên năm 1975. (Ảnh: TTXVN)
Dân quân địa phương tham gia chống lầy, mở đường cho xe tăng quân giải phóng xuất kích trong Chiến dịch Tây Nguyên năm 1975. (Ảnh: TTXVN)
Như vậy, trong chiến dịch Tây Nguyên (Xuân 1975), ta đã tiến hành cả một giai đoạn nghi binh tạo thế đầy sáng tạo, có tính nghệ thuật rất cao, theo một kế hoạch nghi binh công phu, bài bản với nhiều biện pháp nghi binh rất linh hoạt: Từ đánh giả như thật (đánh mạnh như đánh thật), tung tin thất thiệt, tổ chức mít tinh hoan nghênh bộ đội về giải phóng Kon Tum - Plei Ku đến việc tạo những sơ hở giả, tiến hành công tác thiết bị chiến trường và điều động lực lượng úp úp mở mở… khiến cho địch ngày càng tin chắc là ta tiến công ở Bắc Tây Nguyên, góp phần tạo nên sức mạnh áp đảo trong trận then chốt mở đầu, chủ động đánh đòn quyết định tiêu diệt quân địch, giành thắng lợi lớn, làm cho địch không có cách gì trở tay đối phó kịp, cũng như không có cách nào chi viện được cho Buôn Ma Thuột, vì chúng đã bị ta kìm hãm, trói chặt ở Bắc Tây Nguyên... Thực tế đó đã khẳng định: Bằng tài nghệ quân sự và trí thông minh, ta đã cài thế và nghi binh lừa địch rất thành công ở cả ba cấp (chiến lược, chiến dịch, chiến thuật), góp phần tạo được ưu thế có lợi cả trước và trong quá trình tổ chức, điều hành chiến dịch Tây Nguyên giành được thắng lợi to lớn. Các hoạt động nghi binh có tính nghệ thuật cao đã góp phần quan trọng để ta điều khiển địch theo ý định, mở đầu cuộc tiến công một cách chủ động, cũng như cài địch vào thế hiểm, không thể xoay chuyển được cục diện chiến dịch, chiến lược cho dù chúng vẫn còn trong tay nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại và được cơ quan tình báo của Mỹ trực tiếp hỗ trợ. Đặc biệt, từ những nét đặc sắc về nghệ thuật nghi binh tạo thế trong chiến dịch Tây Nguyên đã cho nhận thức một cách đầy đủ hơn: Nghi binh và tạo thế là hai lĩnh vực riêng biệt, nhưng nó có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Nghi binh là hoạt động giả được tiến hành như thật để lừa địch; Tạo thế là hoạt động thật được tiến hành như giả nhằm làm suy yếu kẻ thù; Mục đích của nghi binh và tạo thế đều nhằm tạo ra điều kiện thuận lợi cho ta cơ động và bố trí lực lượng, cũng như có được lợi thế, ưu thế hơn địch trong quá trình tác chiến... Vì vậy, trong hoạt động nghi binh và chiến đấu tạo thế, rất cần có sự kết hợp chặt chẽ, làm cho địch khó phân biệt đâu là thật, đâu là giả; tạo ra thời cơ có lợi cho các hoạt động tác chiến của ta ở quy mô chiến lược, chiến dịch và chiến thuật.
Quân giải phóng tiến vào đánh chiếm sân bay Hòa Bình ở thị xã Buôn Ma Thuột (1975). (Ảnh: TTXVN)
Quân giải phóng tiến vào đánh chiếm sân bay Hòa Bình ở thị xã Buôn Ma Thuột (1975). (Ảnh: TTXVN)
50 năm đã trôi qua kể từ khi quân và dân ta tiến hành thắng lợi chiến dịch Tây Nguyên, Xuân 1975. Từ đó đến nay, cũng đã có rất nhiều học giả, nhà sử học, tướng lĩnh... viết về sự kiện này dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Song, những bài học, kinh nghiệm và cả những thắc mắc về Chiến dịch Tây Nguyên, trong đó có lĩnh vực nghi binh tạo thế dường như chưa bao giờ cạn kiệt. Và cho dù nghệ thuật quân sự, trang bị - kỹ thuật quân sự đã, đang có sự phát triển rất nhanh, các biện pháp nghi binh tạo thế cụ thể trong lĩnh vực quân sự ở từng cấp độ, loại hình tác chiến cũng ngày càng phát triển phong phú, đa dạng (nhất là khi trong chiến tranh ngày càng xuất hiện nhiều công nghệ mới, trang bị mới, phương pháp tác chiến mới và những bước đột phá trong lĩnh vực đối ngoại của Đảng, của nhân dân ta…) thì những kinh nghiệm nghi binh tạo thế được đúc rút ra từ lịch sử chiến tranh nói chung, từ chiến dịch tiến công Tây Nguyên (Xuân 1975) nói riêng, vẫn là những “vốn quý” để các thế hệ hôm nay và mai sau kế thừa, phát triển sáng tạo, phù hợp với yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
[1]. GS Hoàng Minh Thảo, Nghệ thuật quân sự trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, trích trong: Đại thắng mùa Xuân 1975 - bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, Nxb QĐND, HN, 2006, tr. 123.
[2]. Tổng số chủ lực của ta ở Tây Nguyên khi đó gồm 5 sư đoàn bộ binh (10, 320, 316, 968, 3) và 4 trung đoàn pháo binh độc lập cùng 2 trung đoàn pháo binh; 2 trung đoàn pháo phòng không, 1 trung đoàn tăng - thiết giáp, 2 trung đoàn công binh.
[3]. Văn Tiến Dũng, Đại thắng mùa Xuân, Nxb QĐND, Hà Nội, 2003, tr.31
[4]. Hoàng Đan, Nghệ thuật lừa địch trong chiến tranh, Nxb QĐND, Hà Nội, 2000, tr.21
[5]. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Chiến dịch tiến công Tây Nguyên (Xuân 1975), Hà Nội, 1991, tr.22
[6] Hoàng Minh Thảo, Bàn về nghệ thuật quân sự, Nxb CTQG, Hà Nội, 2007, tr. 172
[7]. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Chiến dịch tiến công Tây Nguyên (Xuân 1975), Hà Nội, 1991, tr. 45