
Theo PGS,TS Nguyễn Ngọc Hà, Viện trưởng Viện Nghiên cứu sáng tạo, Trường đại học Ngoại thương, nếu không sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật và có những chính sách, quy định mang tính đột phá, Việt Nam có thể sẽ không tận dụng được lợi thế và tiềm năng to lớn của thị trường carbon để thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Theo mục tiêu của Đề án Thành lập và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam, từ tháng 6/2025 đến hết 2028, Việt Nam sẽ vận hành thí điểm sàn giao dịch carbon trong nước. Tuy nhiên, việc thiếu khung pháp lý điều chỉnh trong lĩnh vực này đang được coi là một trong những “điểm nghẽn” ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường carbon tại Việt Nam hiện nay.
Để làm rõ hơn về nội dung này, phóng viên Báo Nhân Dân đã có cuộc trao đổi với PGS,TS Nguyễn Ngọc Hà, Viện trưởng Viện Nghiên cứu sáng tạo, Trường đại học Ngoại thương.
Phóng viên: Ông đánh giá như thế nào về thực trạng khung pháp lý quản lý và vận hành thị trường carbon tại Việt Nam hiện nay?
PGS,TS Nguyễn Ngọc Hà: Có thể thấy Việt Nam đang thể hiện nỗ lực rất lớn trong việc xây dựng khung pháp luật về quản lý và vận hành thị trường carbon. Với các quy định trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Nghị định số 06/2022/NĐ-CP quy định về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tẩng ô-dôn, Quyết định số 232/QĐ-TTg ngày 24/01/2025 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thành lập và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam…, Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành khung pháp lý điều chỉnh thị trường carbon. Đây đều là những văn bản pháp lý quan trọng đặt nền tảng cho sự phát triển của thị trường carbon tại Việt Nam.
PGS,TS Nguyễn Ngọc Hà, Viện trưởng Viện Nghiên cứu sáng tạo, Trường đại học Ngoại thương
PGS,TS Nguyễn Ngọc Hà, Viện trưởng Viện Nghiên cứu sáng tạo, Trường đại học Ngoại thương
Tuy vậy, cũng có thể thấy hệ thống chính sách, quy định của Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều hạn chế cũng như khó khăn, thách thức. Có thể kể đến như: chưa xác định rõ tính chất “tài sản” của tín chỉ carbon; thiếu cơ chế rõ ràng để xác lập quyền sở hữu tín chỉ carbon rừng; hệ thống đo lường, báo cáo, thẩm định (MRV) chưa hoàn thiện; thiếu các quy định cụ thể về quy trình thẩm định, phê duyệt dự án giảm phát thải. Cùng với đó là thiếu các chính sách hỗ trợ và khuyến khích cũng như cơ chế kết nối với thị trường carbon quốc tế…
Đây là những vấn đề mà Việt Nam cần tập trung giải quyết trong thời gian tới để bảo đảm thị trường carbon ra đời theo đúng lộ trình, phát triển một cách hiệu quả và mang lại lợi ích cho các chủ thể cho liên quan
Còn không ít rào cản, “điểm nghẽn”

Phóng viên: Nhiều chuyên gia cho rằng thiếu khung pháp lý đang là điểm nghẽn lớn nhất khiến thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam phát triển chậm. Ông nghĩ sao về điều này?
PGS,TS Nguyễn Ngọc Hà: Có thể thấy việc phát triển thị trường carbon rừng cần một hệ thống các giải pháp đồng bộ, cả về thể chế, pháp luật, đến kỹ thuật, nguồn lực, nhận thức của các bên liên quan. Thiếu khung pháp lý, chính sách có lẽ nên được coi là một trong những điểm nghẽn ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường carbon.
Như đã phân tích ở trên, khung pháp luật, chính sách của Việt Nam còn nhiều điểm hạn chế. Do đó, trong bối cảnh hiện nay, việc nhanh chóng và tập trung hoàn thiện, ban hành hệ thống chính sách, quy định rõ ràng, đồng bộ, khả thi, phù hợp với thông lệ quốc tế là yếu tố then chốt, giúp khơi thông điểm nghẽn, tạo động lực và thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của thị trường carbon tại Việt Nam.
Phóng viên: Việt Nam sở hữu tiềm năng lớn về tín chỉ carbon rừng, nhưng nhiều địa phương vẫn kêu “gặp khó” khi tham gia bán tín chỉ carbon này? Theo ông đâu là những rào cản?
PGS,TS Nguyễn Ngọc Hà: Việt Nam có tiềm năng lớn trong việc phát triển thị trường tín chỉ carbon rừng. Theo tính toán, với hơn 14,7 triệu ha rừng, Việt Nam có thể tạo ra từ 40-70 triệu tín chỉ carbon rừng, từ đó, có cơ hội thu về hàng chục nghìn tỷ đồng từ chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng. Một số thỏa thuận đã được ký kết về chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng được thực hiện trong thời gian qua đã chứng minh những lợi ích mà việc nhanh chóng phát triển thị trường carbon rừng có thể đem lại.
Tuy vậy, có thể thấy nhiều địa phương tại Việt Nam vẫn gặp khó khăn khi tham gia tín chỉ carbon rừng. Một số rào cản dẫn đến các khó khăn này có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, thiếu cơ chế xác lập quyền sở hữu tín chỉ carbon rừng: Điều 7 Luật Lâm nghiệp năm 2017 xác định hai nhóm chủ sở hữu khác nhau, theo đó Nhà nước là đại diện chủ sở hữu với rừng thuộc sở hữu toàn dân (trong đó có rừng tự nhiên) và tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng. Với rừng tự nhiên thuộc sở hữu toàn dân, nhiều chủ thể khác nhau tham gia vào quản lý rừng (Nhà nước, ban quản lý, cộng đồng, hộ gia đình, cá nhân).
Điều này đặt ra với tín chỉ carbon được tạo ra từ rừng tự nhiên, ai là chủ sở hữu của tín chỉ carbon này, là Nhà nước, cộng đồng địa phương hay các tổ chức, cá nhân tham gia quản lý rừng? Việc xác định quyền sở hữu tín chỉ carbon rừng phải cân nhắc và xem xét đến quyền và lợi ích của tất cả các bên có liên quan. Sự thiếu rõ ràng này có thể gây ra khó khăn trong việc xác định ai có quyền giao dịch và hưởng lợi từ tín chỉ carbon rừng.
Thứ hai, khó khăn trong đo lường, báo cáo và thẩm định tín chỉ carbon rừng: Thực tế hiện nay cho thấy hệ thống MRV tại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế về cả kỹ thuật lẫn thể chế. Mặc dù Việt Nam đã xây dựng Hệ thống Thông tin “Giảm phát thải khí nhà kính từ mất rừng và suy thoái rừng” (REDD+) quốc gia và cơ sở dữ liệu Lưu trữ Thông tin Rừng, nhưng việc vận hành chưa đồng bộ giữa các cấp, và dữ liệu chưa được cập nhật thường xuyên. Theo báo cáo của Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế (CIFOR) năm 2022, nhiều tỉnh, thành phố vẫn chưa đủ năng lực tự thực hiện kiểm kê và báo cáo carbon rừng. Điều này gây khó khăn trong việc xác định chính xác lượng hấp thụ carbon của các dự án trồng rừng, phục hồi rừng và bảo vệ rừng – từ đó làm giảm độ tin cậy của tín chỉ được tạo ra. Một thách thức lớn khác là thiếu dữ liệu cơ bản và công nghệ giám sát hiện đại. Nhiều khu vực rừng vẫn chưa có bản đồ hiện trạng cập nhật, hệ thống vệ tinh viễn thám ứng dụng trong kiểm kê mới chỉ được triển khai thử nghiệm tại một số tỉnh có dự án REDD+ (như Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Lâm Đồng).
Một thách thức lớn khác là thiếu dữ liệu cơ bản và công nghệ giám sát hiện đại. Nhiều khu vực rừng vẫn chưa có bản đồ hiện trạng cập nhật, hệ thống vệ tinh viễn thám ứng dụng trong kiểm kê mới chỉ được triển khai thử nghiệm tại một số tỉnh có dự án REDD+
Báo cáo của Cơ chế Đối tác về Carbon Rừng (Forest Carbon Partnership Facility) chỉ ra rằng, một số địa phương chỉ có thể đo trữ lượng carbon rừng theo phương pháp truyền thống bằng thủ công, gây ra sai số lớn và chi phí cao. Ngoài ra, nguồn nhân lực chuyên môn về lâm nghiệp, viễn thám và hệ thống thông tin địa lý (Geographic Information System, GIS) hiện vẫn thiếu và yếu, đặc biệt tại cấp huyện, xã – nơi giám sát diễn ra trực tiếp.
Bên cạnh đó, Việt Nam hiện chưa có một cơ chế giám sát độc lập và bên thứ ba để xác minh tín chỉ carbon rừng, dẫn đến nguy cơ gian lận hoặc sai lệch trong báo cáo số liệu.
Thứ ba, vẫn còn tồn tại một số rào cản về chính sách và quản lý, có thể kể đến như chưa có cơ chế tài chính bền vững cho REDD+; thiếu sự phối hợp liên ngành; nguy cơ “tẩy xanh” từ việc phát triển các dự án tạo tín chỉ carbon rừng.
Thứ tư, sự tham gia và nhận thức của cộng đồng về tín chỉ carbon rừng còn hạn chế: Nhiều cộng đồng địa phương chưa đủ kiến thức, kỹ năng để tham gia vào các dự án carbon rừng và hưởng lợi từ thị trưởng tín chỉ. Họ cũng chưa có hiểu biết cụ thể về các loại thỏa thuận và hợp đồng có liên quan.
Thu hoạch lúa giảm phát thải trên cánh đồng thí điểm 50 ha của Hợp tác xã Thuận Tiến, xã Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ. Ảnh: Hà An
Thu hoạch lúa giảm phát thải trên cánh đồng thí điểm 50 ha của Hợp tác xã Thuận Tiến, xã Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ. Ảnh: Hà An
Phóng viên: Vậy ông có thể chia sẻ một vài kinh nghiệm quốc tế đáng chú ý trong việc xây dựng khung pháp lý cho thị trường carbon của Việt Nam?
PGS,TS Nguyễn Ngọc Hà: Hiểu rõ tầm quan trọng của thị trường carbon rừng trong việc thực hiện mục tiêu về phòng, chống biến đổi khí hậu, nhiều tổ chức quốc tế, khu vực và quốc gia trên thế giới đã thực hiện các sáng kiến có liên quan mà Việt Nam có thể học hỏi được kinh nghiệm.
Có thể kể đến một số kinh nghiệm quan trọng là: i) thiết lập mục tiêu và lộ trình rõ ràng từ việc xây dựng và phát triển thị trường carbon ở Liên minh châu Âu (EU ETS) và phù hợp với điều kiện quốc gia của Trung Quốc, Hàn Quốc; ii) xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc và toàn diện từ kinh nghiệm của EU, Vương quốc Anh, Trung Quốc…; iii) xác lập rõ ràng quyền sở hữu và quản lý tín chỉ carbon từ kinh nghiệm của Australia; iv) kinh nghiệm về xây dựng hệ thống MRV đáng tin cậy của nhiều tổ chức và quốc gia; v) kinh nghiệm của một số quốc gia đang phát triển khi xây dựng lộ trình và cách tiếp cận với thị trường carbon quốc tế; vi) chú trọng đến các yếu tố xã hội và cộng đồng từ việc thực hiện các dự án REDD+ trên thế giới.
Cần những chính sách mang tính đột phá

Phóng viên: Theo Đề án Thành lập và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam, Việt Nam sẽ thí điểm sàn giao dịch carbon từ 2025, vận hành chính thức vào 2029. Theo ông, để hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến thị trường carbon nói chung và thị trường carbon rừng nói riêng, cần tập trung vào những giải pháp gì?
PGS,TS Nguyễn Ngọc Hà: Có thể thấy Việt Nam đã xây dựng được lộ trình tương đối phù hợp để phát triển thị trường carbon rừng. Để thực hiện lộ trình này, về mặt chính sách và pháp luật, Việt Nam cần lưu ý những điểm sau đây:
Với thị trường carbon nói chung, Việt Nam cần chú trọng đến xây dựng cơ chế, quy định hướng dẫn về cơ chế giao dịch (đang được thực hiện), quản lý tín chỉ carbon, phân bổ hạn ngạch phát thải, các cơ chế giám sát và tuân thủ, cơ chế MRV quốc gia, các chính sách khuyến khích và hỗ trợ, đảm bảo sự phù hợp, tương thích và kết nối với thị trường quốc tế…
Hoạt động trồng rừng gắn với thị trường tín chỉ carbon tại rừng Cần Giờ, TP.HCM được đánh giá có nhiều tiềm năng.
Hoạt động trồng rừng gắn với thị trường tín chỉ carbon tại rừng Cần Giờ, TP.HCM được đánh giá có nhiều tiềm năng.
Với thị trường tín chỉ carbon rừng, Việt Nam cần xác định rõ quyền sở hữu tín chỉ carbon rừng, xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích từ chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng, xây dựng hướng dẫn MRV đặc thù, đảm bảo lợi ích và sự tham gia của cộng đồng địa phương, xây dựng mẫu hợp đồng chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng phù hợp…
Tôi cho rằng, nếu không sớm hoàn thiện pháp luật và có những chính sách, quy định mang tính đột phá, Việt Nam có thể sẽ không tận dụng được lợi thế và tiềm năng to lớn của thị trường carbon để thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!
Ngày xuất bản: 25/5/2025
Tổ chức thực hiện: Nam Đông
Nội dung: Lê Hằng
Trình bày: Thùy Lâm