Bàn thêm về những trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự

Bộ luật Hình sự (BLHS) Việt Nam năm 2015, sửa đổi năm 2017 có hiệu lực từ ngày 1-1-2018 (gọi tắt là BLHS 2015) có nhiều điểm mới quan trọng đề cao quyền con người, quyền công dân. Một trong những chế định phản ánh rõ nét chính sách hình sự và cụ thể hóa quy định của Chương II Hiến pháp 2013 về tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân là những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự (TNHS).

Loại trừ TNHS là trường hợp một người có hành vi gây thiệt hại cho xã hội, nhưng theo quy định của BLHS thì họ không phải chịu TNHS do có một trong những căn cứ được loại trừ TNHS - chứa đựng yếu tố loại trừ tính chất tội phạm của hành vi. Việc BLHS 2015 tập trung sửa đổi về những trường hợp loại trừ TNHS nhằm mục đích: Bảo đảm ranh giới giữa tội phạm và không phải là tội phạm, trường hợp nào phải chịu TNHS, trường hợp nào được loại trừ TNHS. Mặt khác, bảo đảm yêu cầu xử lý đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Hơn nữa, giúp nâng cao ý thức và trách nhiệm của mỗi công dân trong xã hội để biết những việc làm nào là đúng, việc làm nào là sai, đâu là quyền, nghĩa vụ của mình, đâu là việc nên làm, đâu là việc sai trái. Điều đó góp phần thực hiện một trong những nhiệm vụ mà Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020” đã đề cập là: Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội... Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm...

Trong những trường hợp đã nêu, có một số trường hợp có hành vi gây thiệt hại cho xã hội được loại trừ TNHS là các hành vi có ích, được Nhà nước động viên, khuyến khích và động cơ của người thực hiện là vì bảo vệ lợi ích chung, đó là trường hợp phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội... Vì vậy, đối tượng được loại trừ TNHS là người không phạm tội, có nghĩa hành vi của họ không cấu thành tội phạm do các điều kiện mà BLHS quy định, nên tương ứng người này không phải chịu TNHS trên cơ sở chung. Loại trừ TNHS hoàn toàn khác với miễn TNHS khi hành vi của người được miễn TNHS đã cấu thành tội phạm.

Trong những sửa đổi chính của BLHS 2015 về những trường hợp loại trừ TNHS có hai vấn đề quan trọng. Trước hết, theo nội dung Điều 22 BLHS 2015 về phòng vệ chính đáng, thì các nhà làm luật đã đặt việc bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình, của người khác lên trước lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức cho phù hợp với thực tiễn xét xử và yêu cầu đề cao quyền tự do và an ninh cá nhân theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Như vậy, phòng vệ chính đáng là quyền của mỗi công dân, song cũng đồng thời là nghĩa vụ đạo đức của mỗi người trước những hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra cho xã hội, cho cơ quan, tổ chức, cho người khác hay cho bản thân mình.

Nói cách khác, nghĩa vụ đạo đức này của họ sẽ trở thành nghĩa vụ pháp lý trong trường hợp người ở trong hoàn cảnh, tình huống đó là chủ thể mà theo quy định của pháp luật phải có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, lợi ích hợp pháp của công dân.

Cùng với đó, với việc quy định ba trường hợp được loại trừ TNHS mới bao gồm: Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội; rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ và thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên. Điều đó có nghĩa không chỉ đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xét xử, bảo đảm sự đồng bộ và thống nhất các quy định pháp luật các nước và pháp luật chuyên ngành; mà còn khắc phục “những nhầm lẫn pháp lý” (giáp ranh giữa tội phạm và không phải là tội phạm). Qua đó nâng cao nhận thức và phát huy tinh thần chủ động và tích cực của nhân dân trong công tác phòng ngừa và chống tội phạm; khuyến khích sự sáng tạo, phát triển của mỗi nhà khoa học…

Tuy nhiên, trong điều kiện mới, nhiệm vụ mới, liên quan những trường hợp loại trừ TNHS cần phải tiếp tục hoàn thiện những quy định trong luật. Để tăng cường sự chủ động phòng vệ của người phòng vệ, khuyến khích, động viên họ thực hiện hành vi có ích cho xã hội, khoản 1 Điều 22 BLHS 2015 đã chuyển việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người phòng vệ lên trước, sau đó mới đến của người khác, của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức phù hợp thực tiễn. Tuy nhiên, chung quanh quy định về các trường hợp đương nhiên được coi là phòng vệ chính đáng chưa thể hiện cụ thể trong luật, để mỗi người phòng vệ không phải lo ngại trước sự phán xét của các cơ quan bảo vệ pháp luật khi thực hiện hành vi chủ động, có ích, có lợi cho xã hội.

Điều này cũng hoàn toàn phù hợp quy định trong BLHS các nước (như Trung Quốc, LB Nga, Đức...) và kinh nghiệm cha ông (Điều 453 Quốc triều Hình luật 1428), kinh nghiệm lập pháp mà nhiều nước đang tiến hành để phòng ngừa và chống người đang đêm đột nhập vào chỗ ở của người khác thực hiện hành vi phạm tội... Đặc biệt, đó chính là để phòng ngừa, chống các tội phạm xâm phạm tự do, an ninh cá nhân (của công dân và người thi hành công vụ) như: tội giết người, tội cố ý gây thương tích, tội hiếp dâm, tội cướp tài sản... mà thực tiễn một số vụ án ở Nghệ An, Bình Phước... là minh chứng rõ nét. Ngoài ra, cần ban hành văn bản hướng dẫn cụm từ “cần thiết” trong phòng vệ chính đáng; cần bổ sung thêm mục đích việc gây thiệt hại khi bắt giữ người phạm tội là để chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền nơi gần nhất; phân định rõ TNHS trường hợp mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên đúng hoặc trái pháp luật; ghi nhận bổ sung trường hợp bất khả kháng, người bị ép buộc sử dụng rượu, bia hay chất kích thích mạnh khác, bị ép buộc đưa hối lộ... cũng được loại trừ TNHS mới bảo đảm quyền con người, quyền công dân và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Cùng với đó, tiếp tục rà soát, sửa đổi quy định khác nhằm bảo đảm thi hành tốt quy định về những trường hợp loại trừ TNHS trong BLHS 2015 chính là thực hiện định hướng quan trọng trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020” và tinh thần của Hiến pháp năm 2013 đã đề ra.

BLHS 2015 đã quy định tập trung bảy trường hợp tại một chương độc lập của bộ luật này. Những trường hợp loại trừ TNHS bao gồm: Sự kiện bất ngờ (Điều 20); tình trạng không có năng lực TNHS (Điều 21); phòng vệ chính đáng (Điều 22); tình thế cấp thiết (Điều 23); gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Điều 24); rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Điều 25); thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (Điều 26).

PGS, TS Trịnh Tiến Việt

(Đại học Quốc gia Hà Nội)