Bảo vệ môi trường làng nghề theo hướng phát triển bền vững

Bài 2: Tìm hướng đi mới của các làng nghề

Sản xuất manh mún, phân tán, cơ sở sản xuất thường nằm ngay trong các hộ gia đình, khu dân cư… khiến vấn đề ô nhiễm tại các làng nghề ngày càng trở nên nghiêm trọng. Điều này không chỉ làm ảnh hưởng sức khỏe người dân, mà còn hạn chế sự phát triển sản phẩm làng nghề.
0:00 / 0:00
0:00
Vẽ hoa văn lên các sản phẩm tại làng gốm Bát Tràng. (Ảnh: ĐĂNG ANH)
Vẽ hoa văn lên các sản phẩm tại làng gốm Bát Tràng. (Ảnh: ĐĂNG ANH)

Trước thực trạng này, nhiều chương trình, giải pháp được triển khai để đồng hành với làng nghề “giải cứu môi trường”, hướng tới phát triển bền vững.

Đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường

Trên tinh thần “không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”, nhiều địa phương đã và đang cố gắng tìm cách ngăn chặn, giảm thiểu ô nhiễm từ các làng nghề.

Tuy nhiên, thực tế hiện nay, phần lớn hoạt động sản xuất ở các làng nghề đều có quy mô nhỏ, trình độ sản xuất thấp, thiết bị cũ và công nghệ lạc hậu, trong khi việc quản lý và xử lý chất thải chưa được chú trọng giải quyết nên tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng.

Trước thực trạng này, nhiều nơi đã triển khai các cơ chế khuyến khích, hỗ trợ các hộ làng nghề đổi mới công nghệ, dần thay đổi tư duy sản xuất, đầu tư trang bị máy móc hiện đại để nâng cao hiệu quả sản xuất. Quan trọng hơn, việc ứng dụng khoa học-công nghệ giúp rút ngắn các công đoạn thủ công, góp phần giải phóng sức lao động và cải thiện môi trường làng nghề.

Điển hình như làng gốm Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội), trước đây, mỗi ngày làng nghề tiêu thụ khoảng 800 tấn than và thải vào môi trường các loại khí độc hại: CO, SO2, H2S, bụi silic, chất thải rắn...

Hướng tới phát triển bền vững, các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất làng nghề Bát Tràng đã tích cực chuyển đổi công nghệ nung gốm từ lò than, lò gas truyền thống sang lò gas hiện đại.

Đến nay, Bát Tràng đã có gần 1.000 hộ sản xuất (tương đương hơn 90%) sử dụng lò nung gốm bằng khí gas hóa lỏng, góp phần làm giảm phần lớn lượng phế phẩm so với lò than và hạn chế ô nhiễm ra môi trường chung quanh, giảm tiêu hao năng lượng.

Việc đầu tư công nghệ hiện đại cũng giúp hạ giá thành sản phẩm từ 15-30%; độ chính xác sản xuất đạt hơn 85%; tỷ lệ sản phẩm lỗi, hỏng đã giảm đáng kể và kiểu dáng của sản phẩm cũng đa dạng hơn. Đây cũng là một lợi thế giúp gốm Bát Tràng có năng lực sản xuất và sức cạnh tranh hơn trước.

Tương tự, nhờ “xanh hóa”, một số doanh nghiệp mây tre đan ở làng nghề Phú Vinh, xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ (Hà Nội) đã thu được nhiều lợi ích từ kinh tế đến môi trường.

Khi chưa áp dụng sản xuất sạch hơn, doanh nghiệp bị hao hụt tới 10% mây tươi ở khâu luộc, tẩm, thu mua. Khi thực hiện sản xuất sạch hơn, lượng nguyên liệu hao hụt giảm mạnh, doanh nghiệp không mất nhiều chi phí, nhất là giảm phát thải ra môi trường.

Về làng nghề lược sừng Thụy Ứng, xã Hòa Bình, huyện Thường Tín (Hà Nội) những ngày này, không khó để cảm nhận được sự thay đổi rõ nét của nơi cách đây hơn 10 năm về trước đã từng là một trong những điểm “nóng” của Thủ đô về ô nhiễm làng nghề.

Hiện, Thụy Ứng có đến hơn 200 cơ sở sản xuất thủ công mỹ nghệ nằm xen trong khu dân cư, nhưng vấn đề ô nhiễm môi trường tại đây đã được cải thiện rõ nét.

Theo đại diện lãnh đạo địa phương, các cơ quan chức năng và chính quyền đã tích cực vào cuộc tuyên truyền, hỗ trợ người dân xử lý các vấn đề ô nhiễm.

Cùng với đó, các cơ sở sản xuất ở đây đã xác định, muốn sản xuất bền vững thì phải gắn với việc bảo vệ môi trường do đó đã bắt tay vào đầu tư máy móc, trang thiết bị hiện đại từ phục vụ chế tác, đến các thiết bị công nghệ giảm ô nhiễm môi trường như: Đầu tư làm hầm hút bụi ngay trong nhà xưởng, các cơ sở sơ chế da và sừng trâu, bò cũng thực hiện xây bể lọc nước thải ngay từ đầu nguồn và ngay tại các gia đình. Điều này đã giúp giảm bớt ô nhiễm nước thải.

Có thể thấy, việc làng nghề nỗ lực đầu tư công nghệ, máy móc và chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh, sạch, tiết kiệm năng lượng phần nào đã giúp thương hiệu sản phẩm làng nghề nhận được sự tin tưởng của người tiêu dùng trong và ngoài nước.

Tuy nhiên, không chỉ riêng ở Thủ đô Hà Nội mà tại các làng nghề truyền thống trên cả nước, việc người dân tiếp cận với khoa học kỹ thuật hiện đại phục vụ sản xuất vẫn còn gặp nhiều khó khăn do nguồn lực tài chính, trình độ nhận thức và sự đầu tư, quy hoạch thiếu đồng bộ của các cơ quan ban, ngành và chính quyền địa phương.

Để làng nghề phát triển theo hướng bền vững

Sự tồn tại của các làng nghề trên khắp cả nước chứng tỏ sức sống mãnh liệt của ngành sản xuất thủ công truyền thống. Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu tích cực, một số làng nghề truyền thống đang đối mặt với nguy cơ mai một, thậm chí có nguy cơ biến mất hoàn toàn. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là sự thiếu hụt nguồn nguyên liệu sản xuất, điển hình như ngành mây tre đan khi hàng trăm làng nghề trên cả nước đang phải phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, gây ra nhiều khó khăn trong việc duy trì và phát triển sản xuất.

Sự tồn tại của các làng nghề trên khắp cả nước chứng tỏ sức sống mãnh liệt của ngành sản xuất thủ công truyền thống. Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu tích cực, một số làng nghề truyền thống đang đối mặt với nguy cơ mai một, thậm chí có nguy cơ biến mất hoàn toàn.

Bên cạnh vấn đề nguyên liệu, nhiều làng nghề còn phải đối mặt với những khó khăn về vốn, thị trường tiêu thụ, công nghệ… Đáng chú ý, làng nghề ở Việt Nam chủ yếu vẫn sản xuất theo hình thức tự phát, quy mô nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu và chất lượng lao động chưa đồng đều. Việc thiếu một chiến lược xây dựng thương hiệu hiệu quả khiến sản phẩm của các làng nghề khó cạnh tranh trên thị trường. Phần lớn các làng nghề vẫn duy trì mô hình kinh doanh hộ gia đình, thiếu sự liên kết và hợp tác, dẫn đến hiệu quả sản xuất thấp. Điều này khiến các làng nghề khó tiếp cận vốn, công nghệ và thị trường, gây cản trở sự phát triển làng nghề.

Nhằm tạo điều kiện phát triển làng nghề, ngành nghề nông thôn, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ. Có thể kể đến các chính sách tác động trực tiếp như: Nghị định 52/2018/NĐ-CP ngày 12/4/2018 về Phát triển ngành nghề nông thôn; Quyết định 801/QĐ-TTg ngày 7/7/2022 phê duyệt Chương trình Bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021-2030; trong đó, đã đưa nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ như: Mặt bằng sản xuất, hỗ trợ tín dụng, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, đào tạo nghề… Từ đó các địa phương đã đặt ra nhiều phương án phát triển, bảo tồn làng nghề, trong đó việc phát triển du lịch làng nghề đang được nhiều nơi đẩy mạnh.

Theo các chuyên gia, cần phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trước hết là xây dựng quy hoạch làng nghề gắn với bảo vệ môi trường. Việc quy hoạch cần căn cứ vào đặc điểm của từng làng nghề để có phương án phù hợp. Với những làng nghề có quy mô nhỏ, sản xuất phân tán, mới hình thành có thể quy hoạch tập trung, di dời toàn bộ ra khỏi khu vực dân cư. Với những làng nghề truyền thống lâu đời, sản xuất quy mô lớn cần phải tổ chức bố trí cải thiện được điều kiện sản xuất, vệ sinh môi trường, hạn chế việc cơi nới, xây nhà cao tầng để lưu giữ được nét truyền thống của làng nghề.

Các cơ quan quản lý Nhà nước tại địa phương cần đẩy mạnh công tác kiểm tra, đánh giá môi trường làng nghề. Đối với các dự án sản xuất phải có đánh giá tác động môi trường và kiểm tra trước khi đi vào hoạt động; tăng cường công tác kiểm tra, đình chỉ hoạt động đối với những cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường. Cần có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ các làng nghề đầu tư đổi mới ứng dụng công nghệ, thiết bị tiên tiến vào sản xuất, ưu tiên lựa chọn các công nghệ, thiết bị giúp giảm đến mức thấp nhất hoặc khắc phục ô nhiễm môi trường.

Để làng nghề Việt Nam phát triển bền vững, cùng với đầu tư đổi mới công nghệ cần xây dựng thương hiệu cho sản phẩm làng nghề. Các doanh nghiệp tăng cường sự kết nối lại để tìm ra được sức mạnh chung trong việc xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm làng nghề, thông qua đó đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng và thị trường.

Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam Trịnh Quốc Đạt