
Biến đổi khí hậu đang trở thành thách thức lớn nhất mà nhân loại phải đối mặt trong thế kỷ XXI, buộc các quốc gia phải chuyển đổi mô hình phát triển theo hướng xanh, bền vững. Trong bối cảnh đó, tại Hội nghị COP26, Việt Nam cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, một quyết định chính trị quan trọng thể hiện trách nhiệm quốc gia đối với cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu này, Việt Nam đang đối mặt với hàng loạt thách thức về thể chế, tài chính, công nghệ và năng lực thực thi.
Theo báo cáo đánh giá của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu IPCC (AR6), để hạn chế sự ấm lên toàn cầu ở mức 1,5°C, cần giảm phát thải khí nhà kính toàn cầu khoảng 43% vào năm 2030 so với mức năm 2019 và phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050. Theo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật năm 2020, Việt Nam đặt mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính không điều kiện là 9% vào năm 2030 so với kịch bản phát triển thông thường (BAU).
Tuy nhiên, hiện chưa có số liệu chính thức xác nhận mức giảm phát thải thực tế đến cuối năm 2023. Điều này đòi hỏi những nỗ lực chuyển đổi quyết liệt và đồng bộ hơn, nhất là khi xu thế chuyển dịch xanh đang trở thành yêu cầu bắt buộc với các nền kinh tế nếu muốn duy trì năng lực cạnh tranh, thu hút đầu tư quốc tế và tiếp cận các nguồn tài chính ưu đãi.
Nếu chậm thích ứng, Việt Nam sẽ đối mặt với nguy cơ bị áp thuế carbon biên giới (CBAM) từ các thị trường xuất khẩu lớn như Liên minh châu Âu (EU), ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thương mại, kim ngạch xuất khẩu và khả năng tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Đặc biệt, việc các tập đoàn đa quốc gia siết chặt tiêu chuẩn phát thải carbon trong chuỗi sản xuất sẽ tạo thêm sức ép với các doanh nghiệp Việt Nam, làm suy giảm năng lực cạnh tranh quốc gia và tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế dài hạn.


Nhiều thách thức đặt ra
Phó giáo sư, Tiến sĩ Trương Mạnh Tiến, Ủy viên đoàn Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Tổng Thư ký Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam, nhận định: “Việt Nam đang bước vào giai đoạn then chốt trong việc hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng “0” và chuyển đổi xanh. Tuy nhiên, để biến các cam kết tại COP26 thành hành động cụ thể và có hiệu quả, Việt Nam cần sớm nhận diện chính xác các rào cản và có giải pháp đồng bộ, thực chất”.
Trước hết, thách thức lớn nhất hiện nay là vấn đề tài chính. Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới, để thực hiện mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng “0” (Net Zero), Việt Nam cần khoảng 368 tỷ USD cho các hoạt động giảm phát thải khí nhà kính và chuyển đổi năng lượng từ nay đến năm 2040.
Theo PwC Việt Nam, tính đến ngày 31/3/2024, dư nợ tín dụng xanh tại Việt Nam mới đạt gần 640.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 4,5% tổng dư nợ nền kinh tế, một tỷ trọng còn rất khiêm tốn so với các quốc gia trong khu vực. Trong khi đó, Thái Lan, năm 2022 đã huy động khoảng 30% ngân sách quốc gia cho chuyển đổi xanh, trong khi Hàn Quốc cũng phân bổ hơn 66 tỷ USD cho các dự án năng lượng tái tạo và trung hòa carbon trong giai đoạn 2020-2025 (UNDP, 2022).
Phó giáo sư Trương Mạnh Tiến phân tích thêm: “Việc thiếu hụt nguồn lực tài chính và năng lực tiếp cận các nguồn vốn khí hậu quốc tế là một trong những nút thắt lớn nhất hiện nay. Không chỉ dừng ở quy mô vốn, mà còn là khả năng quản lý, sử dụng hiệu quả và minh bạch hóa các nguồn lực”.
Bên cạnh đó, năng lực kỹ thuật, nhân sự và hạ tầng phục vụ công tác kiểm kê, giám sát khí nhà kính, đo lường, báo cáo, thẩm tra (MRV), cũng như phát triển thị trường tín chỉ carbon còn hạn chế. Hiện nay, Việt Nam chưa có đơn vị nào đủ năng lực thực hiện thẩm định độc lập kết quả kiểm kê khí nhà kính hoặc xác thực giảm phát thải theo tiêu chuẩn quốc tế. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật như phần mềm kiểm kê, thiết bị đo đạc và hệ thống MRV còn thiếu đồng bộ, ảnh hưởng lớn đến độ chính xác của số liệu cũng như khả năng tham gia thị trường tín chỉ carbon toàn cầu.
Về mặt pháp lý, Tiến sĩ Nguyễn Văn Minh, Chuyên gia Pháp lý Truyền thông Việt, cho rằng: “Hệ thống pháp luật liên quan đến biến đổi khí hậu và thị trường carbon tuy đã từng bước được hoàn thiện nhưng vẫn thiếu các quy định cụ thể, đồng bộ, nhất là các văn bản hướng dẫn thực thi. Điều này dẫn đến lúng túng trong triển khai ở cấp địa phương, đặc biệt là các quy định về quyền sở hữu tín chỉ carbon, cơ chế giao dịch, định giá và thanh toán”. Sự chậm trễ trong ban hành các hướng dẫn chi tiết cũng khiến doanh nghiệp và các tổ chức liên quan chưa thể chủ động tham gia thị trường carbon nội địa và liên kết với quốc tế.
Khu công nghiệp Nam Cầu Kiền (Hải Phòng) đang hướng tới xây dựng khu công nghiệp sinh thái. Ảnh: NGÔ QUANG DŨNG
Khu công nghiệp Nam Cầu Kiền (Hải Phòng) đang hướng tới xây dựng khu công nghiệp sinh thái. Ảnh: NGÔ QUANG DŨNG
Ngoài ra, Việt Nam cũng chịu áp lực lớn khi nhiều quốc gia, tập đoàn đa quốc gia siết chặt quy định phát thải. Điển hình là Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của Liên minh châu Âu và các tiêu chuẩn phát thải bắt buộc trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều này đòi hỏi Việt Nam không chỉ phải nhanh chóng hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật, chính sách mà còn cần chủ động hội nhập để tránh nguy cơ bị gạt khỏi các thị trường xuất khẩu lớn.
Như vậy, có thể thấy, ba nhóm thách thức chính mà Việt Nam đang đối mặt trong tiến trình hiện thực hóa cam kết Net Zero và chuyển đổi xanh bao gồm: thiếu hụt nguồn lực tài chính; năng lực kỹ thuật, nhân sự và hạ tầng MRV còn hạn chế; cùng với đó là khuôn khổ pháp lý, chính sách chưa đồng bộ, chậm được hoàn thiện. Nếu không sớm nhận diện và tháo gỡ, những rào cản này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ và hiệu quả thực thi cam kết khí hậu quốc gia.


Giải pháp đồng bộ, thực chất để hiện thực hóa mục tiêu Net Zero
Trước những thách thức lớn mà Việt Nam đang đối mặt, các chuyên gia đều thống nhất cần triển khai một hệ thống giải pháp đồng bộ, vừa khả thi vừa mang tính chiến lược, nhằm tạo bước chuyển biến thực chất trong quá trình giảm phát thải và chuyển đổi năng lượng.
Về thể chế, chính sách, bước đi cấp bách nhất là hoàn thiện khung pháp luật và các văn bản hướng dẫn chi tiết liên quan đến biến đổi khí hậu, chuyển đổi năng lượng và phát triển thị trường tín chỉ carbon.
Phó giáo sư Trương Mạnh Tiến nhấn mạnh cần ban hành quy định rõ ràng về quyền sở hữu tín chỉ carbon, cơ chế giao dịch, định giá và thanh toán, đồng thời chuẩn hóa hệ thống đo lường, báo cáo và thẩm tra (MRV) theo chuẩn quốc tế. Việc này không chỉ tạo hành lang pháp lý minh bạch mà còn là điều kiện tiên quyết để Việt Nam tham gia thị trường carbon toàn cầu và thu hút nguồn vốn quốc tế.
Cùng với đó, việc thành lập một cơ quan điều phối liên ngành cấp quốc gia như Ủy ban Quốc gia về thực hiện mục tiêu Net Zero hoặc Ban Chỉ đạo liên ngành cấp Chính phủ là cần thiết để giám sát tiến độ, điều phối nguồn lực và tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương, khắc phục tình trạng chồng chéo, phân tán hiện nay.

Về tài chính, phát triển thị trường tài chính xanh đóng vai trò then chốt trong huy động nguồn lực phục vụ chuyển đổi xanh. Các công cụ như trái phiếu xanh, tín dụng ưu đãi, cơ chế ưu đãi thuế cho dự án năng lượng tái tạo, giao thông xanh và nông nghiệp carbon thấp cần được thúc đẩy mạnh mẽ.
Đồng thời, vận hành Quỹ Khí hậu Quốc gia theo hướng chuyên nghiệp, minh bạch, có cơ chế linh hoạt để huy động và phân bổ vốn quốc tế là nhiệm vụ cấp thiết nhằm bù đắp khoảng cách tài chính lên tới hàng trăm tỷ USD cho các hoạt động giảm phát thải đến năm 2040.

Về kỹ thuật, hạ tầng và công nghệ, đầu tư xây dựng và nâng cấp hệ thống MRV đạt chuẩn quốc tế là ưu tiên hàng đầu, bởi đây là nền tảng đảm bảo tính chính xác, minh bạch của dữ liệu phát thải, từ đó giúp Việt Nam đủ điều kiện tham gia thị trường tín chỉ carbon toàn cầu.
Bên cạnh đó, cần phát triển hạ tầng kỹ thuật hiện đại như lưới điện thông minh, công nghệ lưu trữ năng lượng, hệ thống quản lý tích hợp để bảo đảm ổn định hệ thống khi tỷ lệ năng lượng tái tạo tăng cao. Việc thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn tại các khu công nghiệp và đô thị cũng là giải pháp hiệu quả, vừa tận dụng tối đa tài nguyên, vừa giảm phát thải, như kinh nghiệm thành công của Thái Lan với các khu công nghiệp xanh.

Về đào tạo, nhân lực, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về biến đổi khí hậu, thị trường carbon và quản lý tài chính xanh cần được tăng cường cả ở trung ương và địa phương. Việc nâng cao năng lực kiểm kê, giám sát khí nhà kính, thẩm định độc lập kết quả kiểm kê và xác thực giảm phát thải đòi hỏi đầu tư bài bản vào đào tạo và chuyển giao công nghệ.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Minh đề xuất đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong xây dựng cơ sở dữ liệu khí nhà kính và phần mềm kiểm kê phát thải, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và minh bạch thị trường carbon.

Về hợp tác quốc tế, việc tận dụng tối đa các cơ hội hợp tác, chuyển giao công nghệ và nguồn vốn quốc tế là đòn bẩy quan trọng giúp Việt Nam tăng tốc chuyển đổi xanh. Đồng thời, khuyến khích phân cấp, trao quyền cho các địa phương chủ động phát triển mô hình đô thị Net Zero, khu công nghiệp xanh, tạo động lực lan tỏa và kiểm chứng chính sách tại thực tiễn địa phương giàu tiềm năng năng lượng tái tạo như Ninh Thuận, Bình Thuận hay Quảng Trị.
Hiện thực hóa cam kết Net Zero không chỉ là trách nhiệm của Chính phủ mà cần sự vào cuộc đồng bộ của cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức xã hội và người dân. Chuyển đổi xanh là xu thế tất yếu, mở ra cơ hội phát triển bền vững song hành với tăng trưởng kinh tế. Nếu Việt Nam tận dụng tốt cơ hội từ cải cách thể chế, đầu tư nhân lực, phát triển hạ tầng kỹ thuật và hợp tác quốc tế, mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 hoàn toàn có thể trở thành hiện thực.



Vai trò doanh nghiệp và cộng đồng trong chuyển đổi xanh
Theo báo cáo của BloombergNEF (2024), dòng vốn đầu tư xanh của khu vực tư nhân Việt Nam mới đạt 161 triệu USD, mức thấp nhất trong sáu nền kinh tế lớn Đông Nam Á, trong khi Thái Lan và Indonesia lần lượt thu hút hơn 400 triệu USD và 560 triệu USD vào các dự án năng lượng tái tạo và hạ tầng bền vững. Thực trạng này cho thấy, dù có những tín hiệu tích cực từ một số doanh nghiệp tiên phong, quy mô và tốc độ đầu tư xanh tại Việt Nam vẫn còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như yêu cầu cấp thiết của quá trình chuyển đổi xanh.
Đáng chú ý, những doanh nghiệp như Unilever Việt Nam, Vinamilk hay SuperPort Việt Nam đang đi đầu trong việc thực hiện các chiến lược giảm phát thải, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero). Unilever Việt Nam đặt mục tiêu đạt Net Zero trên toàn bộ chuỗi giá trị vào năm 2039, đồng thời triển khai các chương trình hỗ trợ đối tác trong chuỗi cung ứng như hội thảo tập huấn “Đường đến Phát thải ròng bằng 0”.
Vinamilk công bố lộ trình giảm 15% khí phát thải nhà kính vào năm 2027, 55% vào năm 2035 và đạt Net Zero vào năm 2050, đồng thời nhanh chóng đạt chứng nhận carbon-neutral cho ba cơ sở sản xuất chỉ trong chưa đầy một năm. SuperPort Việt Nam, một trong những dự án logistics lớn tại tỉnh Vĩnh Phúc, cũng cam kết đạt Net Zero vào năm 2040, tích hợp các giải pháp phát triển bền vững như sử dụng năng lượng tái tạo và chuyển đổi sang đội xe điện vào năm 2030. Những nỗ lực này không chỉ khẳng định cam kết của khu vực tư nhân mà còn mở ra các mô hình tham chiếu thực tiễn cho cộng đồng doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để mở rộng quy mô đầu tư xanh và thu hẹp khoảng cách so với các quốc gia trong khu vực, cần khẩn trương hoàn thiện khung pháp lý tín dụng xanh, thiết lập bộ tiêu chí phân loại dự án xanh thống nhất và đồng bộ, đồng thời ban hành các cơ chế ưu đãi tài chính, tín dụng và thuế phù hợp. Đây là điều kiện quan trọng để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ xanh, thúc đẩy quá trình chuyển đổi sản xuất và tiêu dùng bền vững.
Quy mô và tốc độ đầu tư xanh tại Việt Nam vẫn còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như yêu cầu cấp thiết của quá trình chuyển đổi xanh.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Minh nhấn mạnh: “Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, nhưng khu vực tư nhân và xã hội dân sự phải trở thành lực lượng nòng cốt trong chuyển đổi xanh. Bên cạnh các chính sách khuyến khích doanh nghiệp, cần đẩy mạnh sự tham gia của cộng đồng và các tổ chức phi chính phủ trong giám sát, triển khai các dự án khí hậu”. Đồng quan điểm, nhiều chuyên gia cho rằng việc tích hợp các nội dung về biến đổi khí hậu, Net Zero vào chương trình giáo dục phổ thông, đại học và truyền thông đại chúng là yếu tố nền tảng để thay đổi nhận thức xã hội, hình thành hành vi tiêu dùng và sản xuất có trách nhiệm với môi trường.
Ở góc độ tài chính xanh, bà Phạm Thị Thanh Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước, cho biết: “Thời gian qua, nhận thức của hệ thống ngân hàng đã chuyển biến rõ rệt. Các tổ chức tín dụng tích cực tham gia cấp vốn cho các lĩnh vực xanh như năng lượng tái tạo, nông nghiệp công nghệ cao, giao thông sạch và sản xuất thân thiện với môi trường”.
Tổ hợp trang trại năng lượng tái tạo với công suất 350MW ở Ninh Thuận do TrungNam Group đầu tư có sản lượng khai thác đạt 950 triệu kWh-1 tỷ triệu kWh điện/năm. Ảnh: PHƯƠNG THẢO
Tổ hợp trang trại năng lượng tái tạo với công suất 350MW ở Ninh Thuận do TrungNam Group đầu tư có sản lượng khai thác đạt 950 triệu kWh-1 tỷ triệu kWh điện/năm. Ảnh: PHƯƠNG THẢO
Tuy nhiên, để mở rộng quy mô tín dụng xanh, bà Tùng cho rằng cần sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, ban hành bộ tiêu chí phân loại dự án xanh quốc gia, cũng như xây dựng các cơ chế ưu đãi phù hợp, giúp ngân hàng và doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào các dự án chuyển đổi xanh. Bà cũng nhấn mạnh vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong hoàn thiện chính sách và giám sát hệ thống tín dụng xanh, xây dựng khung quản lý rủi ro khí hậu đối với hệ thống ngân hàng, nền tảng quan trọng để huy động hiệu quả các nguồn lực tài chính cho mục tiêu phát triển bền vững và hiện thực hóa cam kết Net Zero vào năm 2050.
Việt Nam đang bước vào một hành trình dài với nhiều thách thức nhằm hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng “0” vào giữa thế kỷ XXI. Quá trình này đòi hỏi không chỉ cải cách mạnh mẽ về thể chế, chính sách, mà còn cần nguồn lực tài chính lớn, công nghệ hiện đại và sự tham gia của toàn xã hội. Tuy nhiên, với quyết tâm chính trị cao cùng các bước đi chiến lược đã và đang triển khai, Việt Nam hoàn toàn có thể biến thách thức thành cơ hội, hướng tới phát triển bền vững, công bằng và thịnh vượng, đóng góp tích cực vào nỗ lực toàn cầu ứng phó với biến đổi khí hậu.
Ngày xuất bản: 31/5/2025
Tổ chức sản xuất: NAM ĐÔNG
Nội dung: THÙY LINH - HÀ CƯỜNG
Trình bày: NGÔ HƯƠNG
Ảnh: NGÔ QUANG DŨNG; THÀNH ĐẠT; PHƯƠNG THẢO;
TTXVN; BÁO NHÂN DÂN